Thuật ngữ Cứu Chuộc (Rédemption)
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Nguyễn Hùng Oánh
Thuật ngữ Cứu Chuộc (rédemption) ý nghĩa . Tiếng latinh là redemptio bởi động từ redemmere có nghĩa là chuộc lại bằng một giá nào đó. Cựu Ước có hai từ ngữ pháp luật : padah và gaal có nghĩa là chuộc lại, trả tiền chuộc để cứu mạng sống hoặc để thoát khỏi tình trạng đau khổ. Chữ padah được dùng trong trường hợp phải dùng của để chuộc người hay vật. Thí dụ lấy chiên chuộc lừa (Xh 13,13), Luật dạy dâng con trai đầu lòng và dùng tiền chuộc lại (Xh 13,13 ; Ds 18,16) để làm dấu chỉ Thiên Chúa dùng quyền phép đưa dân ra khỏi Ai cập (Xh 13, 14-15). Nếu chủ cố tình để bò húc chết người, người ta đòi bồi thường, chủ trả tiền để chuộc mạng (Xh 21,13). Dùng tiền để chuộc con khỏi tay chủ (Xh 21,8). Chữ gaal được dùng trong trường hợp liên đới thiết thân : chuộc lại bà con sa vòng nô lệ (Lêvi 25,47) chuộc ruộng đất di sản của gia đình đã phát mãi (Lêvi 25,25), đảm nhận huyết thù (Ds 35,19 ; Thp 8, 18-21), lấy vợ góa của người anh em để gây dòng giống cho người chết không con nối dõi (Đnl 25, 5-10). Ý niệm “cứu chuộc” được dùng rõ ràng để chỉ Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi tay Ai cập. Trong sách luật, Thiên Chúa nói với Môisen : “Ta là Yahvê, ta sẽ đem các ngươi ra từ dưới ách khổ dịch Ai cập. Ta sẽ giựt các ngươi ra khỏi cảnh làm tôi mọi chúng. Ta sẽ giương cánh tay và dùng án phạt lớn lao mà chuộc lấy (gaal) các ngươi. Ta sẽ lấy các ngươi làm thành một dân thờ Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi và các ngươi sẽ biết Ta là Yahvê” (Xh 6, 6-7). Cứu độ này liên can đến hai yếu tố : mối dây liên hệ giữa xuất hành và giao ước, mối dây liên hệ giữa giải thoát và sở hữu. Kết quả của cuộc giải thoát là Israel thuộc Thiên Chúa (alliance) (xem Sm 7,23). Chi tiết đặc biệt : không trả tiền chuộc, quyền năng của Thiên Chúa là đủ rồi. Vậy, ta hướng tới sự giải tỏa ý niệm đền bù theo luật pháp. Sách đệ nhị luật dùng từ ngữ trên hai lần, theo tư tưởng : về phía Chúa, cứu chuộc là hành động của tình yêu ; về phía dân, Chúa đòi dân trung thành với Ngài (Đnl 7,8 ; 13,16). Trong truyền thống tiên tri, nói một cách tổng quát, quan niệm Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc với quan niệm một cuộc xuất hành ới liên kết với nhau (Xh 48,20) và tư tưởng cứu chuộc thường đi liền với tư tưởng khác : Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc Israel vì Người đã tạo dựng và dạy dỗ Israel (Is 43, 1-7). Ơ đoạn này cứu chuộc dưới hình thức đổi chác : Ta đã thí Ai cập làm giá cứu chuộc ngươi... (Israel 43,3-4). Quan niệm Thiên Chúa tạo dựng Israel mở rộng kích thước tới toàn thế giới (Is 44,24) ghi dấu một bước mạc khải tiến bộ. Rồi một đề tài mới (hôn phu, hôn thê) xen lẫn trong quan niệm cứu chuộc : Thiên Chúa Yahvê, vị hôn phu của Israel (Is 54,5), cứu chuộc Israel, hôn thê, bằng tình lân ái (Is 54,8). Vậy, Thiên Chúa Yahvê “cứu chuộc” Israel. Nhưng phải lưu ý tới khía cạnh tinh thần của ơn cứu độ này. Không những từ ngữ “Đấng cứu chuộc” luôn luôn đi với từ ngữ “Đấng thánh của Israel” (Is 43,14 ; 47,4 ; 49,7) nhưng còn tìm thấy nhiều lần ý tưởng kêu gọi dân thống hối trở về (Is 44, 21-22 ; 59,20) và ý tưởng dạy dỗ (Is 48,17). Trong truyền thống thánh vịnh, tư tưởng Xuất hành được nhắc lại khi tác giả thánh vịnh gây ý thức hồi tâm cho tập thể và quốc gia (Tv 77,16; 78,35-42), người taq thấy có sự tiếp trí tư tưởng cứu chuộc và sở hữu (Tv 74,2), được mở rộng ra nhất là thời lưu đày (Tv 106,10), từ đó có thành ngữ “những kẻ được Thiên Chúa chuộc lại” (nghĩa là những kẻ sống cảnh chết chóc được Thiên Chúa cứu thoát (Tv107,2). Trong văn chương khôn ngoan : ta lưu ý đến hai câu của thánh Gióp: 6,23 và 19,25. dầu bị đau khổ và theo dư luận là bị Yahvê phạt, thánh Gióp vẫn quả quyết rằng Thiên Chúa hành động như Đấng cứu chuộc, bảo vệ ông và xác quyết ông vô tội. Tân Ước, trong Phúc âm nhất lãm, tiếp tục ý tưởng cứu chuộc bằng một giá chuộc như trong Cựu ước, nhưng ở lãnh vực tinh thần : Chúa Kitô đến để thí mạng sống làm giá cứu chuộc (Mt 20,28 ; Mc 10,45) nói lên cách thế phục vụ. Lời truyền của Chúa Kitô trong tiệc ly : Máu sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội (Mt 26,28) nhắc lại lễ hy sinh ký kết Giao ước Sinai (Xh 24, 3-8) đồng thời nói rằng sự cứu chuộc qui vào sự đau khổ của tôi tớ (Is 53,10). Nơi thánh Phaolô, Chúa Kitô trước hết là Đấng cứu chuộc : trong Ngài ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Ngài (Eph 1,7). Thánh Phaolô giữ vững quan niệm cứu chuộc Cựu Ước : Anh em đã được mua chuộc rồi, giá cả hẳn hoi (1 Cor 6,20, 7,23) dường như tội lỗi làm cho chúng ta thành tù nhân và gạt chúng ta khỏi Thiên Chúa. Nhưng thánh Phaolô không đặt vấn đề món tiền phải trả cho ai. Y tưởng sở hữu là kết quả cứu chuộc năng xuất hiện nơi Người : “Anh em đã được mua lại” (nơi tín hữu Corinto, Galata, 1 Cor 6,20 ; Gl 3,13), vì Chúa yêu thương (Gl 2,20) nên sự cứu chuộc này thuộc lĩnh vực tinh thần (giải thoát ta khỏi tội lỗi: Rm 3,24). Nhiều nơi, tư tưởng cứu chuộc của thánh Phao lô vượt xa Cựu Ước : Ngài chịu chết nhục nhã để chuộc ta khỏi đồ bị chúc dữ gây ra do lề luật (Gl 3,13), Ngài hạ mình chịu chết (Phl 2,8). Hành động tự ý của Chúa Kitô đã vượt xa hành động của Người Tôi Tớ của Yahvê : Thiên Chúa không những muốn Ngài chịu chết cho tội nhân mà còn làm thành sự tội vì tội nhân (2 Cor 5,21), kết quả là nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa (2 Cor 5,18 ; Col 1, 21-22), được thoát khỏi tội lỗi (Rm 3,23 ; Col 1,4 ; 9,15). Khi sai con Ngài đến trong một hình dung xác thịt tội lỗi, Thiên Chúa lên án tội lỗi ngay nơi xác thịt nghĩa là tiêu hủy quyền thống trị của tội lỗi mà lề luật không làm trọn (Rm 8, 2-3). Hành vi cứu chuộc của Chúa Kitô cho tự do tinh thần thực sự, thoát khỏi luật lệ (Col 1,20 ; Gl 3,13) cho đến với Thiên Chúa (Dt 10,19) và trở nên nghĩa tử nhờ hoạt động của Thiên Chúa (Rm 8, 14-18.29). Ơn cứu chuộc chỉ đạt tới viên mãn trong ngày Chúa tái giáng (Rm 8,23), trong khi chờ đợi mỗi tín hữu kết hợp với Chúa Kitô “bù vào những gì còn thiếu sót nơi những quẩn bách Đức Kitô phải chịu vì Thân Mình Ngài tức là Hội Thánh” (Col 1,24) như vậy sự sống Chúa Kitô hiện tỏ nơi ta (2 Cor 10). Nơi Thánh Gioan, Phúc âm của Ngài nhấn mạnh lý do cứu chuộc đã gặp trong Đệ nhị Isaia : tình yêu của Thiên Chúa đã hiến Con của Ngài cho nhân loại để mọi người được sống (Ga 3,16). Ngài cũng xác định lại như vậy trong các bức thư (1 Ga 4,9). Nhưng tình yêu này không một chiều : Chúa Giêsu chu toàn công nghiệp cứu chuộc bằng hành động tự nguyện, hành động yêu thương Chúa Cha và những người Ngài cứu chuộc (Ga 10,11 ; 15,13 ; 1 Ga 3,16). Sau cùng, Phúc âm IV cho một định hướng đã không rõ trong Cựu Ước : nhờ sự cứu chuộc, Chúa Giêsu kết án Satan, tác giả sự xấu (Ga 16,11). Sách Khải huyền lập lại tư tưởng cứu chuộc, thục hồi (acquisition), giải thoát khỏi tội ác, nhưng thêm vào đó, Ngài qui chiếu Xuất hành 19, 5- 6 : tạo dựng một triều đại tư tế gồm những người được cứu chuộc tham sự Giao ước mà Con Chiên đã thực hiện trong máu (Kh 1, 5- 6 ; 5, 9- 10). Suy Niệm : Trong Cựu Ước, Thiên Chúa chính là Đấng cứu chuộc dân Israel. Từ thánh Môisen, đến vua David, đến bài Benedictus của Tư Tế Zacaria và Magnificat của Đức Maria đều ca tụng Thiên Chúa quyền năng là Đấng Cứu chuộc. Trong Tân Ước, ta có thể tóm tắt giáo lý mạc khải về ơn cứu chuộc : Đức Giêsu đã dùng giá máu mình để cứu chuộc chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi ma quỉ, Ngài đã hiến tế mạng sống mình để thục hồi (chuộc về) chúng ta. Ngài đã chịu chết để đền tạ các tội lỗi chúng ta. Ngài đã thanh toán các món nợ đè nặng trên nhân loại tội lỗi, bất lực đền trả. Ngài đã trang trải món nợ đó thay cho ta và lập công để chúng ta được xứng đáng lãnh nhận ơn công chính hóa. Các từ ngữ “cứu chuộc, đền tạ, lập công” dùng trong xã hội nhân loại thường mang tính chất pháp lý, nên khi dùng để diễn tả mầu nhiệm Cứu chuộc ta phải tinh luyện và siêu việt hóa nó. Pháp luật Cựu Ước dạy : “Khi anh em ngươi lâm cảnh túng thiếu phải bán cơ nghiệp đi, thì người chuộc là kẻ ruột thịt nhất, sẽ đến mà chuộc lại những gì anh em ngươi đã bán” (Lêvi 25,26) thật là công bằng : bán đi, muốn chuộc lại phải trả một món sòng phẳng. Nhưng khi trình bày Thiên Chúa cứu chuộc Israel, Thiên Chúa chỉ dùng sức mạnh cứu Israel tức là giải thoát Israel khỏi tay Pharaon để Israel sống trong tự do của dân Chúa, Cựu Ước không nói Thiên Chúa phải trả cho vua Pharaon. Trong Tân Ước, có một thời người ta hiểu từ ngữ cứu chuộc theo nghĩa pháp lý nên đã đưa đến giải thích quá đơn sơ. a. Tội đánh anh bạn một bạt tai nhẹ hơn tội đánh ba má, nhẹ hơn tội đánh Đức Giáo Hoàng. Tội nặng nhẹ tùy theo đối tượng bị xúc phạm. Vậy, Thiên Chúa là Đấng cao trọng vô cùng, Ađam Evà đã xúc phạm tới Ngài nên đã phạm tội nặng nề vô cùng. Muốn chuộc tội thì phải đền bồi. Con người chúng ta hữu hạn, thụ tạo lấy giá gì để đền bồi cho Đấng vô cùng và tự hữu. Vì thế, cần phải có Đấng quyền thế như Thiên Chúa mới đền tội thay cho loài người được. b. Thiên Chúa gớm ghét tội lỗi vô cùng, không bao giờ dung tha tội lỗi, nên khi loài người phạm tội, Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ, muốn hủy diệt cả nhân loại. Vì thương yêu nhân loại, Chúa Con tự nguyện xuống làm người, chịu chết trên thập giá, Thiên Chúa mới nguôi cơn giận, cho nhân loại làm hòa với Ngài. c. Khi Ađam phạm tội, ma quỉ được hưởng những quyền lợi thiết thực đối với số phận con người để tha hồ hoành hành áp chế. Đức Kitô cứu chuộc nhân loại không phải bằng sức mạnh nhưng bằng cách khôn ngoan và khiêm nhường. Ngài sinh làm người nhưng vì không biết Ngài là Thiên Chúa và là kẻ vô tội, ma quỉ lầm tưởng Ngài cũng có tội như mọi người nên ma quỉ đã dám hành hạ Ngài tàn tệ. Bởi sự lộng quyền đó, Thiên Chúa đã hủy bỏ khế ước đã đặt nhân loại dưới quyền thống trị của ma quỉ. Có lẽ ta phải suy niệm từ Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc chúng ta để tìm hiểu mầu nhiệm cứu chuộc trước khi suy nghĩ về tội lỗi ta cần được cứu chuộc. Thiên Chúa muốn cho mọi người được sống đời đời trong vinh quang của Ngài (xem 1 Tm 2,4 ; 4,10), Ngài đã chọn ta trong Đức Kitô từ trước tạo thiên lập địa để ta được nên thánh và vô tì tích trước mặt Ngài (Eph 1,4) vì thế ơn cứu chuộc là do sáng kiến của Thiên Chúa chứ không phải do tội lỗi ta rồi mới có sáng kiến cứu chuộc. Nếu ông bà Tổ tông không phạm tội thì loài người vẫn rất cần ơn cứu chuộc, nghĩa là cần Chúa kéo lên, giải thoát khỏi thử thách, giải thoát khỏi mọi cản trở của “hữu thể tại thế” để ta được hưởng kiến Thiên Chúa trên nước hằng sống. Ông bà Ađam Evà đã từ chối Thiên Chúa đang kéo các ngài lên, tách rời khỏi lệ thuộc Thiên Chúa, vượt ra khỏi luân lý Thiên Chúa để được trở nên thần linh như Thiên Chúa. Kết quả, ông bà mất vinh quang Thiên Chúa, mất đời sống của Thiên Chúa đặt trong nơi ông bà và kéo theo cả nhân loại sống trong tình trạng đó (Rm 3,23). Mất sự sống của Chúa đặt nơi ta, nhân loại bất lực khôi phục lại đời sống đó. Của Chúa, Chúa không ban thì nhân loại đành chịu, nhưng Chúa là Tình Yêu, luôn luôn muốn ban sự sống của ngài cho ta, ta lại không thể nhận được vì tình trạng tội lỗi mà làm ta mất khả năng lãnh nhận : ta cần có ơn cứu chuộc. Nếu ta nghĩ công cuộc cứu chuộc đẫm máu của Chúa Kitô là làm thỏa mãn đức công bằng oán phạt của Thiên Chúa, ta sẽ đi tới ngõ bí. Tình yêu có thể chấp nhận công bằng này không : con cái cứ cư xử tệ bạc với cha mẹ, nhưng mỗi tháng nó vẫn gởi tiền về trả ơn sinh thành, nuôi dưỡng, cha mẹ vẫn vui vẻ nhận vì được đền bù ? Tuy nhiên ta đừng nghĩ Thiên Chúa không xử sự với ta theo đức công bằng của ngài đâu vì một trong những khía cạnh của tình yêu của Thiên Chúa là đức công bằng. Tự yếu tính Thiên Chúa là tình yêu, như thế ngài muốn tha tội cho ta luôn. Nhưng việc tha tội cho nhân loại không đươc thực hiện ngoài những định luật cơ bản của các hữu thể tự do như thánh Toma Aquinô đã nói : “Justitia igitur dei quae constituit ordinem in rebus confornem retioni sapientiae suae, quae est lex ejus convennienter veritas nominatur” nghĩa là sự công bằng nơi Thiên Chúa đồng nghĩa với sự khôn ngoan của ngài hoặc nói cách đầy đủ hơn đồng nghĩ với ưu phẩm gọi là chân thật tính của ngài (Summa Theol 1a, q.21, art 2). Chính chân thật tính đó là nguyên do đã khiến Thiên Chúa thực thi công cuộc nâng cao và hoán cải nhân loại sa đọa theo đường lối đau khổ và thụ nạn của Chúa Giêsu. Về phía con người, con người phải có những tâm tình thống hối, tin cậy mến Thiên Chúa là những tâm tình tất yếu mới có thể lãnh nhận ơn cứu chuộc. Là hữu thể tự do, hình phạt tiêu diệt không thể đi đến những kết quả trên. Về phía Thiên Chúa, Thiên Chúa nhất thiết ảnh hưởng đến con người chúng ta, nhờ ân sủng của ngài làm phát sinh và nảy nở nơi tâm hồn con người những tâm tình tất yếu trên. Muốn ảnh hưởng con người cách thực sự, Thiên Chúa tác động trên con người đúng theo định luật cơ cấu và những định luật theo bản tính con người : con người là một nhân vị tự do nhập thể và nhập thế giữa lòng vũ trụ khả giác. Thực vậy, con người chúng ta chỉ có thể hiểu được nhờ con đường giác quan tức là do tri thức kinh nghiệm : Nihil in intellectu quin prius fuerit in sensu (không có gì trong trí khôn nếu trước đó không có gì trong giác quan, Summa Theol 3,9,4). Thí dụ : chưa đau răng thì không thể hiểu cơn đau răng, có đau răng rồi mới có thể thông cảm với người đang cơn đau răng. Thiên Chúa sẽ cho chúng ta thấy rõ Ngài yêu thương chúng ta, chúng ta mới đáp lại, nên chỉ có con đường Ngôi Hai nhập thể là đánh động tâm hồn ta mạnh hơn cả : - Cảm thấy rằng Thiên Chúa thương yêu chúng ta vô cùng. - Cảm thấy rằng Thiên Chúa hết sức gần gũi chúng ta. - Cảm thấy rằng “Ngài đã trở nên giống tôi”. Tôi đui, tôi mù thì ngài đã xem hoàn hoàn cảnh của tôi là của ngài. Tôi nghèo thì ngài đã sống nghèo. Tôi bị tù đày thì Ngài đã xem hoàn cảnh của tôi là của Ngài. Tôi hèn mọn thì Ngài đã xem ai tiếp tôi là tiếp Ngài v.v… trong mọi hoàn cảnh đời tôi đều có Ngài và tôi có thể trở nên giống Ngài nếu tôi muốn. Nhờ đó, Thiên Chúa có thể khiến con người cảm nghiệm tình ái vô hình của Ngài và nhờ sự cảm nghiệm đó, khiến con người được cảm hóa một cách tự do. Xuất hiện trong một thế giới bị tội ác đánh độc, Ngôi Hai làm người và phải đương đầu với tội ác; và tội ác tự căn bản, muôn loài trừ Ngôi Hai Nhập thể khỏi trần gian. Chính vì nhân loại tội lỗi, công cuộc nhập thể của Ngôi Hai mặc lấy hình thức chiến đấu, đau dớn và đẫm máu mà phần kết thúc sẽ là cuộc thụ nạn tàn nhẫn trên thập giá. Nhưng trong chính cuộc thụ nạn này mà tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Kitô được chứng minh và biểu lộ đến tột độ bởi lẽ không có tình yêu nào cao quý và mãnh liệt bằng tình yêu sẵn sàng phó mạng sống mình vì người yêu. Nhờ cuộc tử nạn vì tình ái sự chết của Chúa Giêsu đạt tới sự vinh thắng của ngày phục sinh. Cuộc thụ nạn và phục sinh của Chúa Kitô chẳng những là dấu hiệu cao đẹp nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại mà còn là NGUYÊN LÝ cho cuộc cải hóa và cứu chuộc nhân loại xét về phương diện tâm lý và hữu thể (tình yêu đã thắng sự khước từ tình yêu, gây niềm tin cho mọi người). Nhờ cuộc tự hạ(kénosis) của Chúa Giêsu là sống làm người thật sự như chúng ta và lãnh nhận cái chết tàn nhẫn, Chúa Kitô gạt bỏ cản trở của ý chí để đón nhận Thánh Ý Chúa Cha cách tuyệt đối (vâng lời cho đến chết) để đón nhận hoan toàn vinh quang Thiên Chúa lan tỏa cùng tận nơi Chúa Kitô và Chúa Kitô phục sinh vinh hiển nên Ngài không còn bị hạn chế trong không gian và thời gian nữa. Ngài hoạt động qua Giáo Hội gây ảnh hưởng cảm hóa đến mọi người chúng ta khả dĩ làm nẩy nở nơi tâm hồn chúng ta những tâm tình thống hối, tin cậy mến, nhờ đó con người cũ nơi chúng ta mới tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô. Linh mục Fx Nguyễn Hùng Oánh