Thực Đẹp Hơn Mộng
- T7, 07/12/2024 - 20:31
- Lm Phạm Quốc Hưng
THỰC ĐẸP HƠN MỘNG
Lm. JBT Phạm Quốc Hưng, CSsR.
Lời ngỏ:
Trong năm nhà tập Dòng Chúa Cứu Thế thuộc Tỉnh Baltimore 1989-1990, bốn chữ “thực đẹp hơn mộng” được in sâu vào tâm tưởng tôi khi có nhiều thời giờ thinh lặng và suy niệm và sống thân tình với Chúa Cứu Thế. Cuối năm 1999, sau một năm làm Giám Tập của Phụ Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Hải Ngoại, tôi nhận dạy tín lý cho các Chị nhà tập Dòng Đaminh Việt Nam ở Houston, Texas. Dịp này, tôi có cơ hội soạn tài liệu này như giáo án cho một khóa Thần Học Căn Bản. Đúng như câu nói: Dạy là học hai lần. Nhờ dành nhiều thời giờ và công sức biên soạn tài liệu này, tôi có dịp ôn lại các kiến thức thần học, hiểu thấu đáo và xác tín và yêu thích hơn kho tàng đức tin Công Giáo. Sau đó, chúng tôi tiếp tục dùng tài liệu này để giảng dạy cho các tập sinh, các khóa tĩnh huấn của các Dòng tu, phong trào và đoàn thể Công giáo tiến hành, các kỳ tĩnh tâm Giáo xứ và Cộng Đoàn. Chúng tôi cũng đã dùng tài liệu này cho khóa “giáo lý người lớn” với tên gọi “Thực Đẹp Hơn Mộng” tại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế Long Beach gần 20 năm trước.
Càng ngày, tôi càng xác tín điều này: Thực đẹp hơn mộng-sự thật về Thiên Chúa-Đấng chính là Chân-Thiện-Mỹ và là Đấng không hề thay đổi. Đó phải chăng cũng là tâm tình của Thánh Augusitnô khi ngài viết: “Ôi, Chúa là chân lý vĩnh cửu, là tình yêu chân thật và là sự vĩnh cửu dấu yêu! Chúa là Thiên Chúa của con, đêm ngày con khao khát Chúa. Và khi con nhận biết Chúa lần đầu, Chúa đã nâng con lên, cho con thấy là có những điều con phải thấy nhưng con chưa tự mình thấy được, Chúa đã chiếu ánh sáng chói chan vào con, khiến cặp mắt mù lòa của con có thể thấy được. Con run lên vì yêu mến và kính sợ…Con yêu Chúa quá muộn, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa vừa mới mãi. Con yêu Chúa quá muộn!”
Phần lớn nội dung tài liệu này được soạn từ quyển Fundamentals of Catholic Dogma của Ludwig Ott, từ bản dịch Anh Ngữ của Patrich Lynch (dịch từ nguyên bản tiếng Đức) với Phép in năm 1954, do Roman Catholic Books xuất bản. Vì tài liệu này được soạn tóm tắt như một giáo án và dùng không ít các thuật ngữ của thần học và triết học, không giải thích sâu rộng, nên có thể khó hiểu đối một số độc giả, nhưng có lẽ sẽ giúp nhiều người, nhất là các linh mục, các giáo lý viên và những người mong muốn có được một đức tin vững chắc ôn lại kiến thức thần học và củng cố đức tin của mình cũng như chia sẻ niềm tin cho tha nhân.
Mỗi khi ôn lại những chân lý đức tin như được tóm lược nơi tài liệu này, tôi muốn lập lại tâm tình của tác giả sách Gương Chúa Giêsu: “Ôi Chúa Giêsu! Ánh Sáng của ánh sáng muôn đời, con đội ơn Chúa vì đã dùng các Tiên Tri, các Tông Đồ và các Tiến Sĩ mà dọn cho con bàn giáo lý thánh thiện ấy” (Q. IV, ch.11).
Đồng thời, tài liệu này được phổ biến như một cố gắng thắp lên một ngọn lửa của Tin Mừng Sự Sống giữa một xã hội và một thế giới bị lạnh cóng và tối tăm bởi sự bành trướng của “văn hóa sự chết,” khi “sự ác lên ngôi” (như tựa một bài viết của Cha Anmai, CSsR), như một sự lập lại lời ân cần nhắn nhủ của tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái: “Anh em hãy nhớ đến những người đã giảng Lời Chúa cho an hem. Hãy nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ. Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời. Đừng để cho đủ thứ học thuyết xa lạ mê hoặc anh em” (Dt 13:7-9a).
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Jan. 9th 2022 HP
PHẦN MỘT: NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN
TỰ NGÔN
“Ta là Ánh Sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được Ánh Sáng đem lại sự sống” (Jn 8:12).
“Ðàng và Sự Thật, Sự Sống, chính là Ta! Không ai đến với Cha mà lại không nhờ Ta” (Jn 14:6)
“Sự Sống Ðời Ðời là: chứng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Ðấng Cha đã sai, Giêsu Kitô” (Jn 17:3)
“Chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm chứng cho Sự Thật. Phàm ai thuộc về Sự Thật, thì nghe được tiếng tôi” (Jn 18:37)
“Còn các ngươi thì chớ cho gọi mình là Rabbi, vì Thầy của các ngươi chỉ có một, còn các ngươi hết thảy đều là anh em. Và các ngươi đừng xưng hô ai dưới đất là ‘Cha’ của các ngươi, vì Cha của các ngươi chỉ có một, Cha trên trời. Các ngươi cũng chớ gọi mình là ‘vị chỉ đạo’, vì vị chỉ đạo của các ngươi chỉ có một: Ðức Kitô” (Mt 23:8-10)
MỤC ÐÍCH:
Giúp học viên hiểu biết, cảm nhận, xác tín, say mến để rồi dấn thân sống và làm chứng cho các thực tại căn bản của niềm tin Công Giáo. Khóa thần học tín lý căn bản này có thể mang tên là “Lẽ Ðạo Cần Biết”.
Tạo cho học viên có một cái nhìn tổng quát về nội dung, phương pháp, ngôn ngữ và khái niệm được dùng trong thần học Công Giáo.
Tập cho học viên phát triển khả năng suy tư thần học và óc phán đoán để phân biệt và đánh giá đúng đắn các tư duy thần học theo cảm nghĩ của Hội Thánh.
SỰ THẬT:
“Sự thật” (truth) hay “chân lý” là từ ngữ được đặt ở trung tâm của toàn bộ nội dung khóa học.
Tất cả những suy tư thần học sẽ chẳng có gía trị gì nếu không được xây dựng trên căn bản sự thật: sự thật về Thiên Chúa, sự thật về thế giới ta đang sống, sự thật về con người.
Mọi cố gắng trong thần học phải nhắm đến việc trung thành trình bày các chân lý bất biến và vô cùng phong phú của niềm tin bằng ngôn ngữ chính xác và thích hợp với cảm thức của con người t hời đại. Nhờ đó, người ta sẽ được hấp dẫn bởi sức mạnh vô địch và vẻ đẹp tuyệt vời của những thực tại đức tin để yêu mến, chấp nhận, sống và làm chứng cho niềm tin.
Vì Sự Thật cùng với Sự Sống và Tình Yêu chỉ là Một Bản Thể Duy Nhất nơi Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Ðối Tượng Tuyệt Ðối và Duy Nhất của lòng trí mỗi người chúng ta.
THẦN HỌC-KHOA HỌC THÁNH:
Từ ngữ “thần học” (theology) có nghĩa là khoa học về Thiên Chúa (God), về Thượng Đế hay Thần Minh.
Ðối tượng chất thể (material object) của thần học trước hết là Thiên Chúa và sau đó là những vật được tạo thành (created things) trong sự liên hệ của chúng với Thiên Chúa. Trong thần học mọi sự phải quy chiếu về Thiên Chúa.
Về đối tượng mô thể (formal object), ta cần phân biệt hai loại thần học: thần học tự nhiên (natural theology or theodicy) và thần học siêu nhiên (supernatural theology).
Thần học tự nhiên là việc trình bày hay diễn giải một cách khoa học (scienticfic exposition) các chân lý về Thiên Chúa như được nhận biết bởi lý trí tự nhiên (natural reason). Vì vậy, thần học tự nhiên có thể được coi như tột đỉnh của triết học (philosophy).
Thần học siêu nhiên là việc trình bày hay diễn giải một cách khoa học các chân lý về Thiên Chúa dưới ánh sáng của Mạc Khải Thiên Chúa (Divine Revelation). Thần học Công Giáo thuộc về thần học siêu nhiên. Từ ngữ “thần học” chúng ta thường dùng hầu hết có nghĩa là thần học siêu nhiên.
Ðối tượng mô thể của thần học tự nhiên là Thiên Chúa như được nhận biết bởi lý trí tự nhiên từ tạo thành của Người.
Ðối tượng mô thể của thần học siêu nhiên là Thiên Chúa như được nhận biết bởi đức tin từ mạc khải.
Thần học tự nhiên và thần học siêu nhiên khác nhau:
Về nguyên tắc nhận thức (principles of cognition): lý trí nhân loại chưa được trợ giúp (unaided human reason) Vs. lý trí được soi sáng bởi đức tin (reason illuminated by faith).
Về phương thế nhận thức (means of cognition): nghiên cứu các vật thụ sinh (study of created things) Vs. Mạc Khải Thiên Chúa.
Về đối tượng mô thể: Thiên Chúa như Hóa Công và Chúa Tể Vs. Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi.
THẦN HỌC NHƯ MỘT KHOA HỌC:
Thần học, theo Thánh Tôma Aquinô (Thánh Tiến Sĩ Thomas Aquinas, OP), là một khoa học đích thực vì thần học xử dụng các nguyên tắc được xây dựng vững chắc trên các chân lý căn bản của Mạc Khải Thiên Chúa và rút ra từ những chân lý này sự hiểu biết mới bằng một phương pháp triệt để khoa học và làm thành một hệ thống chặt chẽ.
Thần học vượt lên trên mọi khoa học khác vì sự siêu việt của đối tượng của nó, sự chắc chắn tối cao của những kiến thức dựa trên sự hiểu biết không thể sai lầm của Thiên Chúa, và mục đích thiết thực của nó là hạnh phúc vĩnh hằng, cùng đích của con người.
Theo Thánh Tôma, thần học vừa là một khoa học nghiên cứu suy tư (speculative) vừa là môt khoa học thực dụng (practical). Thần học một mặt suy ngắm chính Thiên Chúa là Chân Lý Nguyên Thủy (First Truth) và những vật trong liên hệ với Người; mặt khác, thần học nghiên cứu những hành vi luân lý của con người trong liên hệ với cùng đích siêu nhiên của họ là chính Chúa. Tính cách suy ngắm của thần học cao cả hơn vì trên hết nó nhắm đến Chân Lý Thiên Chúa. Mục đích cuối cùng của thần học luân lý (moral theology) suy cho cùng cũng là việc đem con người đến sự hòan hảo trong sự hiểu biết về Thiên Chúa.
Trường phái Phan-sinh hồi Trung cổ đánh giá thần học chính yếu như một khoa học thiết thực hay cảm tính vì kiến thức thần học tự bản chất nhắm đến việc đánh động những cảm tình hay ý chí. Mục đích chính của Thần Học Luân Lý (Moral Theology) là sự hoàn thiện luân lý của con người.
Sự khác biệt giữa ở đây là do mực thang giá trị mỗi trường phái đặt cho các quan năng của linh hồn người ta. Thánh Tôma và trường phái của ngài cùng với Aristotle nhìn nhận sự ưu việt của trí tuệ (intellect); trường phái Phan-sinh cùng với Thánh Augustinô nhìn nhận ý chí.
Ở nhà nguyện DCCT tại Esopus, NY có hai tượng Thánh Augustinô và Thomas ở hai bên cung thánh để nhìn nhận hai ngài như hai cột trụ vững chắc siêu quần của thần học Công Giáo. Nơi tay tượng Thánh Augustinô có cầm một trái tim tượng trưng cho sức mạnh của ý chí và tình yêu, và nơi ngực tượng Thánh Thomas có hình mặt trời tượng trưng cho ánh sáng của trí tuệ và chân lý.
St. Augustinô: “Tôi tin để tôi hiểu”
St. Thomas: “Tôi hiểu để tôi tin”
St. Anselm nhìn thần học như “đức tin kiếm tìm”.
Các nhà thần học chân chính khuyên ta: Bạn phải nghiên cứu thần học trên đầu gối (You must do theology on your knees); nghĩa là, ta phải nghiên cứu thần học trong tinh thần cầu nguyện.
Thần học còn là “sự khôn ngoan” vì đối tượng của thần học là chính Thiên Chúa, nguồn gốc tận cùng của vạn vật. Nó là sự khôn ngoan tối cao vì nó nghiên cứu Thiên Chúa trong ánh sáng của những chân lý của mạc khải được thông tri cho con người từ sự khôn ngoan của chính Thiên Chúa.
Thần học còn là khoa học của đức tin. Nó nghiên cứu đức tin trong chiếu kích khách quan (objective sense, fides quae creditur), nghĩa là điều được tin và trong chiều kích chủ quan (subjective sense, fides qua creditur), nghĩa là điều nhờ đó ta tin.
Cũng như đức tin, thần học nhận Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền của Hội Thánh như nguồn mạch kiến thức của mình. Là một khoa học của đức tin, thần học dùng lý trí của con người để đào sâu vào nội dung và bối cảnh của kho tàng chân lý siêu nhiên để hiểu biết những chân lý này một cách tường tận hết sức có thể.
Vì Thiên Chúa và những chân lý thuộc về Người thì vô cùng phong phú và mầu nhiệm nên sự phát triển của thần học cũng sẽ không bao giờ ngừng lại. “Ôi! thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan, thượng trí của Thiên Chúa! Những phán quyết của Người vô phương dò thấu, đường lối của Người không kế dõi theo” (Rom 11:33).
Phải nhớ: Chúa ban quyền rao giảng các chân lý đức tin cho các tông đồ chứ không cho các nhà thần học, và Người bảo đảm sự chân thật của các chân lý đức tin bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh với ơn bất khả ngộ của Giáo Hội qua Phát Ngôn Viên chính thức của Hội Thánh là Ðức Giáo Hoàng và các giám mục hiệp thông với Người. Các nhà thần học không hơn các triết gia về việc họ không được bảo đảm với ơn bất khả ngộ. Thần học phải phục vụ đức tin. Thần học gia chân chính phải là con người của Thiên Chúa. Học giả Kinh Thánh đích thực phải là mẫu người của Thánh Kinh, của niềm tin.
CÁC NGÀNH THẦN HỌC:
Thần học là một khoa học đơn thuần (unitary science) với một đối tượng mô thể độc nhất là Thiên Chúa và thế giới được tạo thành, như những đối tượng của Mạc Khải Thiên Chúa. Như Mạc Khải là sự thông tri (communication) sự hiểu biết Thiên Chúa (divine knowledge), thần học, theo Thánh Thomas, là dấu ấn (sign) của sự hiểu biết Thiên Chúa, đơn thuần và tuyệt đối giản đơn, trên thần trí con người được tạo dựng.
Tuy vậy, thần học được chia thành nhiều ngành khác nhau tùy theo các chức năng khác nhau của nó:
1. Thần Học Tín Lý (Dogmatic Theology): Thần Học Căn Bản (Fundamental Theology), Kitô Học (Christology), Thần Học Bí Tích (Sacramental Theology), Giáo Hội Học (Ecclesiology), Cánh Chung Học (Eschatology), Thánh Mẫu Học (Mariology).
2. Thần học Thánh Kinh-Lịch Sử (Biblical-Historical Theology) gồm các khóa học về Thánh Kinh (Biblical Studies), Chú Giải Thánh Kinh (Exegesis), Diễn Nghĩa Thánh Kinh (Hermeneutics), Lịch Sử Giáo Hội (Church History), Lịch Sử các Tín Ðiều (History of Dogmas), Giáo Phụ Học (Patrology)
3. Thần Học Thực Dụng (Practical Theology): Thần Học Luân Lý (Moral Theology), Thần Học Tu Ðức (Spiritual Theology), Giáo Luật (Canon Law), Thần Học Mục Vụ (Pastoral Theology) gồm cả Giáo Lý (Catechetics) và Thuyết Giảng (Homiletics).
KHÁI NIỆM VỀ TÍN ÐIỀU (DOGMA):
Một tín điều hay tín lý theo sát nghĩa được hiểu ngay là một chân lý được Chúa mạc
khải và Huấn Quyền của Hội Thánh truyền dạy phải tin như thế.
Mỗi tín điều với nội dung của nó đều có nguồn gốc từ Chúa; nghĩa là, tín điều là sự diễn tả một chân lý khách quan và nội dung của nó thì bất biến.
Hai thành phần có thể được phân biệt trong khái niệm về tín điều:
a.Ðược thấy ngay trong nguồn mạch Mạc Khải (Thánh Kinh và Thánh Truyền) cách rõ ràng hay bao hàm.
b.Ðược long trọng xác quyết bởi Huấn Quyền của Hội Thánh.
Tín điều theo ý nghĩa thật đúng của nó là đối tượng của Ðức Tin Thiên Chúa (Divine Faith--Fides Divina) và Ðức Tin Công Giáo (Catholic Faith--Fides Catholica): Là đối tượng của Ðức Tin Thiên Chúa vì Mạc Khải Thiên Chúa của nó, và là đối tượng của Ðức Tin Công Giáo vì được xác định bởi Huấn Quyền Bất Khả Ngộ của Hội Thánh.
Ðức Thánh Cha Bênêđictô XVI đưa ra một định nghĩa thật chính xác cho thấy tương quan giữa tín điều và Thánh Kinh: “Các tín điều chính là những giải thích Thánh Kinh chính thức của Hội Thánh”.
Thuyết Thệ Phản chối bỏ Huấn Quyền của Hội Thánh và như vậy cũng chối bỏ luôn những giải thích về nội dung Mạc Khải của Hội Thánh. Họ cho rằng Mạc Khải Thánh Kinh tự chứng thực cho nó.
Những giáo phái Thệ Phản cấp tiến gần đây không những chối bỏ Huấn Quyền của Hội Thánh mà còn chối bỏ cả Mạc Khải Thiên Chúa khách quan bằng việc coi Mạc Khải chỉ như những kinh nghiệm tôn giáo chủ quan trong đó linh hồn bước vào liên hệ với Thiên Chúa.
Lạc thuyết duy tân (modernism) cho rằng những tín điều của Hội Thánh không phải là những chân lý từ Trời được gìn giữ nguyên vẹn qua truyền thống tôn giáo. Họ cho rằng tín điều chỉ là sự giải thích những dữ kiện tôn giáo nhờ công khó của những nỗ lực suy tư thần học. Căn bản của tín điều, theo đó, là kinh nghiệm tôn giáo chủ quan (subjective religious experience) trong đó Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho con người.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TÍN LÝ:
Các lạc thuyết cho rằng có sự phát triển tự căn bản của các tín lý (substantial development of dogmas) nên nội dung của tín lý thay đổi cách triệt để theo dòng thời gian. Lạc thuyết hiện đại chủ trương: Tiến bộ trong khoa học đòi hỏi các quan niệm (conception) của giáo huấn Kitô về Thiên Chúa, Tạo Thành, Mạc Khải, Bản Vị của Ngôi Lời Nhập Thể, Việc Cứu Ðộ phải được nhào nắn lại (giống như hiện tượng great reset ngày nay).
Loisy tuyên bố: “Như tiến bộ trong khoa học (triết học) đòi hỏi một quan niệm mới về vấn đề Thiên Chúa, nên tiến bộ trong khảo cứu lịch sử dẫn đến một khái niệm mới về vấn đề Ðức Kitô và Giáo Hội”.
Theo đó, không có những tín lý ổn định và vững chắc; những khái niệm về tín lý luôn phát triển.
Quan niệm lầm lạc này đã bị Công Ðồng Vatican I lên án: “Nếu ai nói rằng vì có sự
tiến bộ trong khoa học, một ý nghĩa được gắn cho các tín lý của Hội Thánh khác hơn điều mà Hội Thánh đã và đang hiểu về chúng, người ấy bị tuyệt thông”. Ðức Piô XII nói: “Quan niệm này khiến tín điều trở thành một cây sậy phất phơ trước gió”.
Giáo Hội dạy rằng về mặt chất thể của tín điều; nghĩa là trong việc chuyển thông các
Chân Lý Mạc Khải cho nhân loại, có một sự tăng triển tự căn bản (substantial growth) xảy ra
trong lịch sử nhân loại cho đến khi Mạc Khải đạt đến mức thành toàn nơi Chúa Kitô (Dt 1:1).
Với Chúa Kitô và Các Tông Ðồ Mạc Khải Công Cộng đã chấm dứt. Công Ðồng Vatican II dạy: “Chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang” (DV 5).
Về mặt mô thể của tín điều; nghĩa là trong sự hiểu biết và trong những giáo huấn của Hội Thánh về Chân Lý Mạc Khải, và kéo theo là đức tin công khai của Hội Thánh, có sự phát triển phụ thuộc nơi các tín điều (accidental development of dogmas) theo các hình thức sau:
1. Những chân lý trước kia chỉ được tin cách bao hàm (implicitly) được dạy phải tin cách rõ ràng (expressly).
2. Những chân lý chưa được Huấn Quyền dạy tin nay được khẳng định phải tin.
3. Các chân lý cổ truyền vẫn được tin được Huấn Quyền cắt nghĩa rõ ràng
để xóa tan những hiểu lầm và xuyên tạc.
4. Những câu hỏi được bàn cãi trước đây được Huấn Quyền cắt nghĩa và quyết định;
những quan niệm sai lạc bị kết án.
5. Cũng có sự tiến bộ trong lời tuyên xưng đức tin của cá nhân người tín hữu qua sự
mở rộng và đào sâu sự hiểu biết của người ấy về kiến thức thần học. Căn bản của
sự tiến bộ này một mặt nằm ở chiều sâu của những chân lý đức tin và mặt khác hệ
tại khả năng khác nhau về sự hoàn hảo của lý trí con người.
NHỮNG QUAN ÐIỂM HAY Ý KIẾN THẦN HỌC:
(Theological Opinions)
Những quan điểm thần học là những ý kiến tự do về những khía cạnh của những tín điều về đức tin và luân lý, không được xác định bởi Mạc Khải hay chưa được định đoạt bởi Huấn Quyền của Hội Thánh. Giá trị của những quan điểm này dựa vào việc chúng có chiều hướng phù hợp với Mạc Khải hay Huấn Quyền Hội Thánh hay không.
Một điểm về tín lý không còn là đối tượng để tùy tiện phán đoán nữa khi Huấn Quyền của Hội Thánh đã có thái độ định đoạt rõ ràng.
MỰC THANG KHẢ TÍN
1. Các chân lý được mạc khải trực tiếp hay được Giáo Hội long trọng tuyên bố phải tin vì được chứa đựng trong Mạc Khải. Chúng được tin do thẩm quyền của Thiên Chúa Mạc Khải và Huấn Quyền của Hội Thánh.
2. Các chân lý Công Giáo hay các tín điều của Hội Thánh đã được Huấn Quyền Bất Khả Ngộ của Hội Thánh long trọng quyết định. Chúng được tin chỉ dựa trên thẩm quyền của Hội Thánh như những tín điều không thể sai lầm.
3. Một giáo huấn tương hợp với đức tin như một giáo lý cách chung được các nhà thần học coi như một chân lý của Mạc Khải, nhưng chưa được Hội Thánh chính thức nhìn nhận.
4. Một giáo huấn về đức tin có gía trị thần học chắc chắc như một giáo lý nhưng chưa được Giáo Hội nhìn nhận cách chung kết, nhưng tính cách chân thực của nó được bảo đảm bởi các liên hệ nội tại của nó với các giáo lý về mạc khải.
5. Giáo huấn được giảng dạy rộng rãi tự do vì được chấp nhận cách chung bởi các nhà thần học.
6. Quan điểm riêng của một hay vài thần học gia.
MỰC THANG CÁC CHÂN LÝ (Hierarchy of Truth):
1.Mầu nhiệm về Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần, Ðấng Tạo Thành Vạn Vật.
2.Mầu Nhiệm Ðức Kitô; Ngôi Lời Nhập Thể, Ðấng được sinh ra bởi Ðức Trinh Nữ Maria, chịu nạn, chịu chết, và sống lại để cứu độ chúng ta.
3.Mầu nhiệm Chúa Thánh Thần, hiện diện trong Hội Thánh để thánh hóa và hướng dẫn Giáo Hội cho đến khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang.
4.Mầu Nhiệm Hội Thánh, Nhiệm Thể Chúa Kitô, trong đó Ðức Trinh Nữ Maria chiếm chỗ cao trọng nhất.
TƯƠNG QUAN GIỮA TRI THỨC TỰ NHIÊN VÀ SIÊU NHIÊN VỀ THIÊN CHÚA:
Công Ðồng Vatican II dạy:
Thiên Chúa đã muốn dùng mạc khải để bày tỏ và thông ban chính mình Ngài cùng những ý định muôn đời của ngài liên quan đến phần rỗi nhân loại, “nghĩa là cho họ được tham dự vào các sự tốt lành thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn vượt khỏi trí khôn loài người”.
Thánh Công Ðồng tuyên xưng rằng: “Con người nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí, có thể từ các tạo vật nhận biết có Thiên Chúa như nguyên lý và cứu cánh mọi sự” (Rom 1:20), Công Ðồng còn dạy: Chính nhờ Thiên Chúa mạc khải mà “tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa, tự nó không vượt quá khả năng lý trí con người, trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, đều có thể được biết cách dễ dàng, chắc chắn mà không thể lẫn lộn sai lầm” (Dei Verbum #6).
TƯƠNG QUAN GIỮA THÁNH TRUYỀN VÀ THÁNH KINH:
Công Ðồng Vatican II dạy:
“Bởi vậy, Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết, phối hợp mật thiết với nhau vì cả hai phát xuất từ một nguồn mạch là Thiên Chúa, có thể nói kết hợp nên một và cùng hướng về một mục đích. Thực vậy, Thánh Kinh là lời Chúa nói, vì được ghi lại dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần; còn lời Chúa, mà Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các Tông Ðồ, thì Thánh Truyền lưu lại toàn vẹn cho những kẻ kế vị các ngài, để nhờ Thần Chân Lý soi sáng, họ trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng. Do đó không chỉ nhờ Thánh Kinh mà biết cách xác thực những điều mạc khải. Chính vì thế cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình quý mến và kính trọng như nhau” (Dei Verbum # 9)
TƯƠNG QUAN GIỮA THÁNH TRUYỀN, THÁNH KINH, DÂN CHÚA VÀ HUẤN QUYỀN:
Công Ðồng Vatican II dạy:
“Thánh Quyền và Thánh Kinh họp thành một kho tàng thánh thiện duy nhất chứa đựng lời Thiên Chúa và được ủy thác cho Giáo Hội. Trong khi gắn bó với kho tàng ấy, toàn thể dân thánh hiệp nhất với các chủ chăn, luôn được vững bền trong giáo lý các Tông Ðồ, trong niềm hiệp thông, trong việc bẻ bánh và lời cầu nguyện, đến nỗi trong việc tuân giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin lưu truyền, các Giám Mục và tín hữu hiệp nhất với nhau cách lạ lùng.
“Nhiệm vụ chú giải đích thực lời Chúa đã được viết ra hay lưu truyền chỉ được ủy thác cho Quyền Giáo Huấn sống động của Giáo Hội và Giáo Hội thi hành quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên Quyền Giáo Huấn này không vượt trên lời Chúa nhưng để phục vụ lời Chúa, chỉ dạy những gì được truyền lại, vì thừa lệnh Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thành tâm lắng nghe, gìn giữ cách thánh thiện và trung thành trình bày lời Chúa, đồng thời từ kho tàng duy nhất ấy, Giáo Hội rút ra mọi chân lý mà dạy phải tin là do Thiên Chúa mạc khải.
“Bởi thế, hiển nhiên là Thánh Truyền, Thánh Kinh và Quyền Giáo Huấn của Giáo Hội, theo ý định vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa, liên kết và phối hợp chặt chẽ với nhau đến nỗi không thể nào trong ba có thể đứng vững một mình được. Và dưới tác động của Chúa Thánh Thần duy nhất, cả ba, theo phương cách riêng, cùng góp phần hữu hiệu vào việc cứu rỗi các linh hồn” (Dei Verbum # 10).
TẦM QUAN TRỌNG CỦA THÁNH KINH ÐỐI VỚI THẦN HỌC:
Chúng ta tin là tin Thiên Chúa, tin Lời Chúa dựa vào thẩm quyền của Chúa nơi chính Chúa, nơi Chúa Kitô va nơi Nhiệm Thể của Người là Hội Thánh.
Lời Chúa đến với ta không phải chỉ qua Thánh Kinh nhưng còn qua Thánh Truyền được bảo đảm bởi Huấn Quyền Hội Thánh.
Thánh Kinh là Lời Chúa, nhưng Lời Chúa không chỉ giới hạn trong Thánh Kinh. Vì Lời Chúa trước tiên và trên hết chính là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, là Chúa Giêsu Kitô.
Muốn hiểu biết Lời Chúa--là Chính Chúa--và các chân lý về Thiên Chúa, chúng ta phải yêu mến, vâng phục, gắn bó thiết tha với Hội Thánh Chúa Kitô, phải có cùng cảm nghĩ với Hội Thánh và trong Hội Thánh. Thánh Augustinô nói: “Bạn không thể có được Thần Khí Chúa Kitô nếu bạn không ở trong Thân Mình của Người là Hội Thánh”. Và: “Mức độ Chúa ban Thần Khí cho mỗi người, tùy mức độ lòng yêu mến của người ấy với Hội Thánh.”
Lời Chúa trong Thánh Kinh không thể sai lầm vì chính Chúa là tác giả. Nếu có điều gì ta cảm thấy không đúng, sự không đúng hay sai lầm ấy là ở chính ta hay của những dịch giả Thánh Kinh sau này. Thánh Augustinô nói: “Nếu trong những sách này (Thánh Kinh) tôi gặp điều gì xem ra nghịch lại chân lý, tôi sẽ không ngần ngại kết luận rằng bản dịch này sai lôi, hoặc dịch giả đã không lột tả được ý nghĩa của đoạn văn, hoặc chính tôi không hiểu.”
Thánh Công Ðồng Vatican II tuyên bố:
“Khoa thần học thánh dựa trên Thánh Kinh và Thánh Truyền như dựa vào một nền tảng vĩnh cửu. Trên nền tảng này, thần học được củng cố, trở nên vững chắc và được trẻ trung mãi trong khi tìm kiếm, dưới ánh sáng đức tin, tất cả chân lý tiềm ẩn trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Thánh Kinh chứa đựng lời Chúa và vì được linh ứng nên thực sự là Lời của Chúa, nên việc nghiên cứu Thánh kinh phải như linh hồn của khoa thần học thánh. Thừa tác vụ lời Chúa--nghĩa là việc rao giảng mục vụ, dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trong đó bài giảng phụng vụ phải chiếm một chỗ quan trọng--phải được nuôi dưỡng lành mạnh và gia tăng sinh lực cách thánh thiện nhờ lời Thánh Kinh” (Dei Verbum # 24).
“Thánh Công Ðồng cũng tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu, cách riêng các tu sĩ hãy năng đọc Thánh Kinh để biết ‘khoa học siêu việt của Chúa Giêsu Kitô’ (Ph 3:8). ‘Vì không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô (St. Jerome)” (Dei Verbum # 25).
“Hãy yêu mến Thánh Kinh và Sự Khôn Ngoan sẽ yêu mến bạn; hãy yêu mến nó và nó sẽ gìn giữ bạn; hãy tôn vinh nó và nó là ôm ẵm bạn; đây là những viên ngọc bạn nên đeo nơi ngực và nơi tai bạn” (St Jerome to Demetrias).
NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA THẦN HỌC:
Những nguyên lý hay những chân lý của thần học chính là những điều khoản của đức tin (articles of faith). Những điều khoản này được tóm lại trong Kinh Tin Kính của Các Tông Ðồ (the Apostles’ Creed) và Kinh Tin.
Theo truyền thống, trước khi chia nhau đi rao giảng Tin Mừng khắp muôn dân, 12 tông đồ họp lại và dưới sự hướng dẫn của Thần Khí soạn ra một bản tóm tắt tất cả những điều căn bản nhất của niềm tin Công Giáo. Ðó là Kinh Tin Kính.
Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo (GLGHCG) theo truyền thống chia Kinh Tin Kính thành 12 điều khoản như sau:
# 1 Tôi tin kính Ðức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.
# 2 Tôi tin kính Ðức Giêsu Kitô, là Con Một Ðức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi.
# 3 Chúa Giêsu Kitô đã thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, và Ngài đã sinh ra bởi Trinh Nữ Maria.
# 4 Chúa Giêsu Kitô đã chịu khổ hình dưới thời Phongxiô Philatô, Ngài đã chịu đóng đinh thập giá, đã chết và đã được mai táng.
# 5 Chúa Giêsu Kitô đã xuống ngục tổ tông, và ngày thứ ba Ngài đã sống lại từ cõi chết.
# 6 Chúa Giêsu Kitô đã lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha toàn năng.
# 7 Từ đó Chúa Giêsu Kitô sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
# 8 Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần.
# 9 Tôi tin Hội Thánh Công Giáo và các thánh thông công.
# 10 Tôi tin phép tha tội.
# 11 Tôi tin xác loài người sẽ sống lại.
# 12 Tôi tin có sự sống vĩnh cửu.
Kinh Tin: “Lạy Chúa Con, con tin thật có một Ðức Chúa Trời là Ðấng thưởng phạt vô cùng. Con lại tin thật Ðức Chúa Trời có ba Ngôi, mà Ngôi Thứ Hai đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết mà chuộc tội cho thiên hạ. Bấy nhiêu điều ấy cùng các điều Hội Thánh dạy, thì con tin vững vàng. Vì Chúa là Ðấng thông minh và chân thật vô cùng đã phán truyền cho HộiThánh Amen.”
Trong Kinh Tin, ba mầu nhiệm căn bản của đức tin Công Giáo được kể ra:
#1 Mầu nhiệm một Chúa ba Ngôi (Trinity).
#2 Mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người hay mầu nhiệm Nhập Thể (Incarnation).
#3 Mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc (Redemption).
Kinh Tin còn nêu lên hai nguyên lý nền tảng của đức tin:
Thứ nhất: Ðức tin của chúng ta dựa vào thẩm quyền của chính Thiên Chúa, Ðấng là chính Sự Thật và Lời Người đã phán không thể sai lầm.
Thứ hai: Ðức tin của chúng ta còn dựa vào thế giá của Hội Thánh là Nhiệm Thể và Hiền Thê của Chúa Giêsu Kitô, là Mẹ và là Thầy của chúng ta.
Thần học không bàn cãi lý luận các chân lý đức tin này như triết học để chỉ cho thấy chúng phù hợp với lý trí. Nhưng thần học chỉ trình bày và quảng diễn các chân lý ấy dựa vào thẩm quyền của Thiên Chúa Mạc khải và dựa vào những chân lý căn bản ấy để rút ra những chân lý khác bằng việc nghiên cứu và lý luận.
Sức mạnh của một phát biểu trong triết học dựa trên tính cách hợp lý của nó.
Sưc mạnh của một phát biểu trong thần học dựa trên việc nó có phù hợp với những chân lý đã được Chúa mạc khải và những giáo huấn đã được Hội Thánh khẳng định hay không?
PHẦN HAI: MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA
SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA (THE EXISTENCE OF GOD)
Việc chứng minh chân lý “Chúa hiện hữu” hay “Có Chúa” một đôi khi được xem là không cần thiết hay bất khả vì đây là một chân lý hiển nhiên hay tự chứng thực (self-evident) dựa trên khái niệm đúng đắn về Thiên Chúa.
Một chân lý có thể là tự chứng thực theo hai cách:
a) nơi chính nó và đối với trí khôn con người và
b) nơi chính nó nhưng không đối với trí khôn con người.
Sự thật của lời phát biểu “Chúa hiện hữu” là tự chứng thực nơi nó vì Thiên Chúa hiện hữu một cách cần thiết (necessarily existent). Sự hiện hữu (existence) đồng nghĩa với Chúa như sự tròn (roundness) đồng nghĩa với bản chất của vòng tròn (cycle). Nếu khái niệm về Thiên Chúa và sự hiện hữu đã mau chóng và hoàn hảo sẵn nơi trí khôn con người, ta không cần chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Nhưng sự thực của “Chúa hiện hữu” tuy tự chứng thực nơi chính nó lại không tự chứng thực đối với trí khôn con người, nên chân lý này cần được chứng thực.
Có hai cách chứng thực một điều:
Cách thứ nhất: từ một nguyên nhân đã được biết rõ ta suy ra hiệu quả, cách này gọi là minh chứng chiếu bản tính (priori reasoning).
Cách thứ hai: từ một hiệu quả được biết rõ hơn ta tìm ra nguyên nhân, cách này gọi là minh chứng chiếu lý do (posteriori reasoning).
Trong việc chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa, ta dùng cách lý giải hậu suy. Minh chứng chiếu lý do.
Thánh Thomas Aquinus đưa ra 5 cách chứng minh Chúa hiện hữu:
#1 Dựa vào nguyên lý chuyển động (motion): Bất cứ một chuyển động (motion) nào đều do một động nhân (mover) gây nên. Nếu ta không chấp nhận một chuỗi bất tận những động nhân trung gian, ta phải nhìn nhận một Ðộng Nhân Ðầu Tiên (First Mover) và Ðộng Nhân này tự mình chuyển động không cần ai tác động (Unmoved Mover). Ðó là Chúa.
#2 Dựa vào nguyên lý nguyên nhân-hệ quả (cause-effect): Bất cứ một vật nào cũng hiện hữu như hệ quả của một nguyên nhân nào đó và chính nó cũng là một nguyên nhân gây nên hệ quả khác. Nếu ta không chấp nhận một chuỗi bất tận những nguyên nhân là hệ quả cuả một nguyên nhân khác, ta phải nhìn nhận một Nguyên Nhân Tự Có (Uncaused Cause). Ta gọi đó là Chúa.
# 3 Dựa vào khái niệm Hữu Thể Cần Thiết (Necessary Being): Quan sát các hữu thể ta thấy chúng chỉ là những hữu thể tùy thuộc (contingent beings), nghĩa là chúng không nhất thiết phải có. Có lúc chúng hiện hữu, có lúc chúng sẽ biến đi. Nếu tất cả chỉ là những hữu thể tùy thuộc, thì sẽ có lúc chẳng có gì cả và như vậy là vô lý. Vì thế, ta phải nhìn nhận có một Hữu Thể Cần Thiết hay Hữu Thể Tuyệt Ðối, Phải Có. Ðó là Chúa.
#4 Dựa và mực thang sự toàn hảo của các sự vật (scale of perfection): Mỗi vật đều được xếp trong liên hệ hơn kém về sự toàn hảo với các vật khác. Vật này tốt ắt phải có vật khác tốt hơn: “cao nhân tắc hữu cao nhân trị”. Cứ thế, ta sẽ phải nhìn nhận một Ðấng Toàn Thiện Tuyệt Ðối không ai toàn hảo hơn. Ðó là Thiên Chúa.
#5 Dựa vào trật tự và sự xếp đặt được nhìn thấy (order and government): Mỗi vật đều hiện hữu và hoạt động theo những đường lối và trật tự nhất định do một tác nhân biết sắp đặt nào đó. Ta phải nhìn nhận Thiên Chúa như Ðấng Xếp Ðặt Tuyệt Ðối an bài trật tự của toàn thể vũ trụ này và là Ðấng Thông Minh Tuyệt Ðối.
Lý giải của Thánh Anselm: Từ lời Thánh Vịnh “Kẻ ngu si tự nhủ: Làm gì có Chúa Trời”, Thánh Anselm lý luận rằng ngay kẻ ngu cũng có khái niệm về Thiên Chúa. Nếu gọi Chúa là Ðấng mà không ai nghĩ ra được Ðấng nào cao cả hơn, thì nếu ngay cả kẻ ngu cũng có khái niệm về Thiên Chúa, thì nếu Chúa chỉ có trong trí của kẻ ngu mà thôi thì vẫn chưa phải là Ðấng cao cả nhất. Do đó, Thiên Chúa phải có không những trong khái niệm của kẻ ngu, nhưng thực sự hiện hữu trong thực tế. Lý giải này thường được gọi là lý giải hữu thể luận (ontological argument).
Ở đây, chúng ta được nhắc lại khái niệm về sự hiện hữu trong triết học. Một vật có thể hiện hữu (exists) theo hai cách: Hoặc trong trí khôn của ai đó, hoặc trong thực tại. Và hai thành phần căn bản của một hữu thể (being) trong siêu hình học (metaphysics) là bản chất (essence) và hiện hữu (existence).
Lý giải từ ý thức luân lý: Mỗi người chúng ta đều cảm thấy một thứ luật trong lương tâm buộc ta phải làm lành lánh dữ. Luật này chắc chắn không phải do loài người làm ra hay do xã hội áp đặt lên ta. Vì có những việc ta làm được xã hội chấp nhận nhưng lương tâm vẫn khiến ta áy náy. Trái lại, có những việc ta làm bị xã hội chê bai nhưng ta vẫn cảm thấy an bình vui sướng trong tâm hồn. Ai đã in vào lòng ta lề luật phải trái ấy, nếu không phải là chính Chúa?
Ðức Cha Fulton J Sheen: “Ngày xưa, người ta nhận biết Thiên Chúa từ trật tự được nhận biết nơi vũ trụ bên ngoài. Ngày nay, con người nhận biết Thiên Chúa từ chính sự xáo trộn nơi tâm hồn của họ”.
Lý giải “người đánh cuộc” (wager) của Blaise Pascal (1623-1662): Giả sử tôi không tin có Thiên Chúa, tôi không sống theo Lời Chúa. Khi tôi chết, nếu có Chúa là Ðấng Thưởng Phạt Vô Cùng, tôi thật là vô phúc vì sẽ bị án phạt đời đời; nếu không có Chúa, tôi cũng chẳng được thêm sự gì. Nhưng nếu tôi tin là có Chúa và sống theo Lời Ngài. Khi tôi chết, nếu không có Chúa, tôi cũng chẳng thiệt gì; nếu có Chúa, tôi sẽ được hưởng phúc vô cùng; và ngay khi còn sống, ý thức về sự hiện hữu của Thiên Chúa là Ðấng Hằng Hữu Toàn Năng, Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ, Toàn Tri, Toàn Ái, cũng đã đem lại ý nghĩa và niềm vui sâu xa cho cuộc sống của tôi rồi.
Lý giải quy-Kitô (Christocentric): Sự hiện diện, các hoạt động, giáo huấn và ảnh hưởng của Chúa Kitô và Hội Thánh của Người với bao vị đại thánh như những vĩ nhân trong lịch sử nhân loại đã là một hiện tượng lạ lùng đủ chứng minh không những hiện hữu của Thiên Chúa mà còn cho thấy sự can thiệp kỳ diệu của Người trong lịch sử nhân loại.
Tín điều: Thiên Chúa, Tạo Hóa và Ðức Chúa của chúng ta, có thể được nhận biết chắc chắn nhờ ánh sáng của lý trí từ những tạo vật (De fide: buộc phải tin).
Công Ðồng Vatican I nhấn mạnh các điểm sau:
a.Ðối tượng của sự nhận biết của ta là một Thiên Chúa chân thật, Tạo Hóa và Ðức Chúa của chúng ta, và vì vậy là một Thiên Chúa siêu thường và bản vị (extramundane and personal).
b.Nguyên lý nhận biết chủ quan là lý trí tự nhiên trong điều kiện của bản tính đã bị sa ngã.
c.Phương thế nhận biết là những tạo vật.
d.Sự nhận biết này tự bản chất và cách thế của nó là một sự nhận biết chắc chắn.
e.Sự nhận biết Thiên Chúa như thế thì khả thi (possible), nhưng đó không phải là cách thế duy nhất để nhận biết Người.
Theo Thánh Kinh, sự hiện hữu của Thiên Chúa có thể được nhận biết:
a.Từ tự nhiên (nature): “Quả thế đi từ sự hùng vĩ và xinh đẹp của tạo vật, người ta luận ra được ý niệm về Ðấng Hóa Công” (Wis 13:1-9, esp. 5). “Vì từ buổi tạo thành vũ trụ, những gì nơi Người, mắt xác thịt không thể thấy, thì trí khôn nhìn ngắm được nơi công việc Người làm: quyền năng hằng có và thần tính của Người, khiến họ vô phương chữa mình” (Rom 1:20).
b.Từ lương tâm (conscience): “Ví thử dân ngoại không có Luật, nhưng theo lương năng mà làm những điều Luật dạy, thì họ, những kẻ không có Luật, họ là luật cho chính mình họ…” (Rom 2:14-24).
c.Từ lịch sử (history): Tại Lystra, Phaolô nói với dân chúng về Thiên Chúa sau khi bảo họ đừng tôn ông là thần như sau: “Trong những thế hệ đã qua, Người để mặc các dân hết thảy đi theo đường lối của họ; tuy rằng Người không để thiếu chứng chỉ về Người, Người hằng thi ân, cho mưa từ trời xuống trên các ông; ban mùa trái trăng, cho các ông được no lòng ấm cật, hưởng đời an vui” (Acts 14:16-17; xem Acts 17:26-29).
Tín điều: Sự hiện hữu của Thiên Chúa chẳng những chỉ là một đối tượng sự nhận biết của lý trí tự nhiên nhưng còn là một đối tượng của đức tin siêu nhiên (de fide).
-“Tôi tin kính một Thiên Chúa” là điều ta tuyên xưng đầu tiên trong Kinh Tin Kính.
-“Còn không có đức tin thì vô phương làm đẹp lòng (Thiên Chúa). Vì ai lại gần Thiên Chúa thì phải tin là Người có, và Người thưởng công những ai tìm kiếm Người” (Heb 11:6).
-Mạc khải siêu nhiên về sự hiện hữu của Thiên Chúa khẳng định nhận thức tự nhiên về Thiên Chúa và khiến cho sự hiện hữu của Thiên Chúa được mọi người nhận biết dễ dàng với sự chắc chắn không chút lầm lạc.
BẢN TÍNH (NATURE) CỦA THIÊN CHÚA:
A. YẾU TÍNH SIÊU HÌNH (METAPHYSICAL ESSENCE) CỦA THIÊN CHÚA:
1.1Yếu tính (essence) là điểm ưu tiên và chính yếu làm cho một vật là vật này mà không phải là vật khác. Còn bản tính (nature) được hiểu là nguyên nhân và nguồn gốc của hoạt động.
1.2 Người ta thường phân biệt yếu tính vật lý (physical essence) và yếu tính siêu hình (metaphysical essence). Yếu tính vật lý là toàn bộ những cấu tố tổ hợp nên một vật và phân biệt nó với những vật khác, như thân thể, sự sống, cảm xúc và lý trí nơi con người. Yếu tính siêu hình còn gọi là cấu tố của yếu tính, là điều ưu tiên và chính yếu cấu thành một vật trong một loại riêng, phân biệt vật ấy với vật khác và là cội gốc của tất cả những đặc trưng của một vật.
1.3 Yếu tính vật lý của Thiên Chúa là toàn thể những hoàn thiện bao hàm trong bản tính Thiên Chúa, những hoàn thiện này thực sự đồng nhất với nhau (The physical essence of God is the totality of the Divine perfections which are factually identical among themselves).
1.4Yếu tính siêu hình của Thiên Chúa:
a.không hệ tại sự vô cùng căn để (radical infinity)
b.cũng không hệ tại sự hiểu biết hiện tại (radical knowledge)
c.mà hệ tại hữu thể lập hữu (Subsisting Being).
“Thiên Chúa nói với Môsê: ‘Ta là Đấng Hiện Hữu’-- Người phán:‘Ngươi nói với con cái Israel thế này:‘Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em” (Xh 3:14).
B. CÁC THUỘC TÍNH HAY ƯU PHẨM CỦA THIÊN CHÚA
(THE ATTRIBUTES OR QUALITIES OF GOD):
Các ưu phẩm của Thiên Chúa:
a.không phân biệt với yếu tính và với nhau bằng thứ phân biệt thực định
b.cũng không phân biệt với nhau bằng thứ phân biệt lý định thuần túy
c.mà bằng thứ phân biệt lý định có nền tảng tiểu đẳng
Các ưu phẩm của Thiên Chúa thực sự đồng nhất với nhau và đồng nhất với yếu tính Thiên Chúa (De fide).
Các ưu phẩm của Thiên Chúa có thể được chia thành:
a.phủ định và xác định (negative and positive) như vô biên và quyền năng
b.bất khả thông và khả thông (incommunicable and communicable) như tự hữu và thiện hảo
c.tuyệt đối và tương quan (absolute and relative) như thánh thiện và thương xót
d.thể hữu và thể động (being and being-active) như đơn thuần và toàn tri
1. Thiên Chúa thì tuyệt đối hoàn thiện (absolutely perfect) (De fide).
2. Thiên Chúa thì thực sự vô cùng trong mọi sự hoàn thiện (infinite in every perfection) (De fide).
3. Thiên Chúa thì tuyệt đối đơn thuần (absolutely simple) (De fide)
a.Thiên Chúa không phải là vật thể.
b.Thiên Chúa không phải là hữu thể kép (composed being):
i)bởi chất thể (matter) và mô thể (form)
ii)bởi bản tính (nature) và bản vị (person)
iii)bởi bản thể (substance) và phụ thể (accidents)
iv)bởi yếu tính (essence) và hiện hữu (existence)
v)bởi giống loại (genus) và dị điểm loại hoặc cá biệt (specific differece)
c.Thiên Chúa là hữu thể hoàn toàn đơn thuần.
d.Thiên Chúa siêu việt trác tuyệt trên mọi tạo vật.
Kinh Thánh chỉ ra sự đơn thuần tuyệt đối của Thiên Chúa bằng việc đồng nhất yếu tính của Người với các ưu phẩm của Người như: “Thiên Chúa là Thần khí” (Jn 4:24); “Còn Chúa, Ngài chính là Thần khí; và đâu có Thần khí của Chúa, thì đó có tự do” (2Cor 3:17); “Thiên Chúa là lòng mến” (1Jn 4:8); “Ðàng và sự thật, sự sống, chính là Ta” (Jn 14:6).
4. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất (De fide): “Hãy nghe, hỡi Israel, Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Yavê độc nhất” (Tl 6:4).
5. Sự thật của Thiên Chúa (God’s Truth):
a.Sự thật thực thể luận (ontological truth) hay sự thật của sự vật (truth of things) hệ
tại sự hài hòa giữa hữu thể của một vật và ý tưởng về nó (its idea). Ðó là hữu thể của chính những sự vật như có thể được biết. Hữu thể cũng đồng nghĩa với sự thật.
Thiên Chúa Duy Nhất (The One God) theo thực thể luận là Thiên Chúa Ðích Thực (The True God) --De fide. Nói khác, Thiên Chúa là chính Sự Thật Tối Cao (Supreme Truth).
b.Sự thật luận lý (logical truth) hay sự thật của tư tưởng (truth of thought) hệ tại sự
hài hòa giữa tư tưởng và những sự vật. Sự hoàn thiện của sự thật nhận thức (truth of cognition) tùy thuộc vào sự hoàn thiện của trí tuệ.
Thiên Chúa có một sức nhận thức vô cùng (De fide).
c.Sự thật luân lý (moral truth) bao gồm sự chân thực (veracity) và trung tín (faithfulness). Sự chân thực là sự hài hòa giữa lời nói và sự hiểu biết. Sự trung tín là sự hài hòa giữa hành động và lời nói.
Thiên Chúa thì tuyệt đối chân thực (De fide): “Thiên Chúa không thể sai lời” (Dt 6:18).
Thiên Chúa thì tuyệt đối trung tín (De fide): “Nếu ta bất tín, Ngài vẫn trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình Ngài” (2Tim 2;13).
6. Sự thiện hảo của Thiên Chúa (God’s goodness):
a.Như sự thật thực thể luận là tương quan giữa hữu thể với trí tuệ, sự thiện hảo thực thể luận (ontological goodness) là tương quan giữa hữu thể với ý muốn (will). Một vật là tốt nơi chính nó (bonum quod) nếu nó có những sự hoàn thiện tương hợp với bản tính của nó và là tương đối tốt (bonum cui) nếu nó thích hợp để hoàn thiện những sự vật khác. Sự thiện hảo hướng đến việc thông chia chính nó cho kẻ khác.
Thiên Chúa là Sự Thiện Hảo thực thể tuyệt đối (absolute ontological Goodness) nơi chính Người và trong tương quan với những sự vật khác (De fide).
Sự thiện hảo thực thể tuyệt đối của Thiên Chúa là căn bản cho Hạnh Phúc Vô Cùng của chính Ngài. Trong sự nhận biết và yêu mến chính Người như Sự Thiện Hảo Tối Thượng, Thiên Chúa vui sướng vô cùng trong việc chiếm hữu và thưởng thức chính Người.
Thiên Chúa là sự thiện hảo thực thể tuyệt đối trong tương quan với những sự vật khác bởi lẽ Người chính là mẫu mực, nguyên ủy và cùng đích của muôn loài thọ sinh: “Vì mọi sự đều do Người, nhờ Người và vì Người” (Rom 11:36).
b.Sự thiện hảo luân lý (moral goodness) hay sự thánh thiện (holiness) bao gồm sự tự do không vướng tội lỗi và sự tinh khiết trong hành vi luân lý. Căn bản chung kết của sự thiện hảo này hệ tại sự hài hòa giữa ý muốn và tiêu chuẩn luân lý.
Thiên Chúa là Sự Thiện Hảo Luân Lý tuyệt đối hay Sự Thánh Thiện (De fide).
- Thiên Chúa là Sự Tốt Lành tuyệt đối (absolute Benignity) (De fide).
Sự tốt lành của Chúa thể hiện qua việc Người ban phát cho các thụ sinh vô vàn ân huệ về mặt tự nhiên lẫn siêu nhiên nhờ đó chúng được dự phần vào sự thiện hảo của Người: tác tạo, gìn giữ, quan phòng, cứu chuộc, thánh hóa.
d. Thiên Chúa là Sự Ðẹp tuyệt đối (absolute Beauty).
Theo Thánh Tôma, Chúa có nơi Người ba đặc điểm thuộc về khái niệm sự đẹp: tuyệt đối hoàn hảo, tuyệt đối đơn thuần và tuyệt đối tinh khiết.
7. Thiên Chúa thì tuyệt đối không thay đổi (absolutely immutable) (De fide).
Một vật gọi là thay đổi khi đi từ điều kiện này đến điều kiện khác. Bởi bản tính giới hạn của mình, mọi tạo vật đều thay đổi: “Chúng sẽ hư, nhưng Người còn mãi…còn Người, Người vẫn thế, và tuổi của Người sẽ không hề có hạn” (Tv 102:27-28).
Thánh Tôma đặt sự tuyệt đối không thay đổi của Chúa trên căn bản hiện thể tinh thuần của Người (his pure actuality), sự đơn thuần tuyệt đối của Người (absolute simplicity) và sự hoàn thiện vô cùng của Người (infinite perfection). Sự thay đổi bao gồm tiềm thể (potentiality), sự hợp thành (composition) và sự bất toàn (imperfection); như thế, không thể có nơi Chúa.
8. Thiên Chúa là vĩnh hằng (eternal) (De fide).
9. Thiên Chúa thì bao la (immense) và tuyệt đối không thể đo lường (immeasurable) (De fide).
Thiên Chúa hiện diện ở mọi nơi trong khoảng không được tạo thành (De fide).
C. SỰ HOÀN THIỆN CỦA KIẾN THỨC NƠI THIÊN CHÚA:
1.Sự thông biết (knowledge) của Thiên Chúa thì vô cùng (De fide).
“Ôi! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan, thượng trí của Thiên Chúa! Những phán quyết của Người vô phương dò thấu, đường lối của Người không kế dõi theo!” (Rom 11:33).
Sự thông biết vô cùng của Thiên Chúa được dựa trên:
1a. Thực tại của những thụ tạo có trí khôn cho thấy Ðấng Tạo Hóa là nguồn gốc của chúng ắt phải thông biết vô cùng.
1b. Trật tự và chung cánh của vũ trụ đòi hỏi sự hiện hữu của một Ðấng Ðiều Khiển với sự thông biết vô cùng.
1c. Sự thiêng liêng hay phi vật chất (immateriality) của Chúa. Vì sự phi vật chất là căn bản của sự thông biết và mức độ của sức nhận thức tùy thuộc mức độ của sự phi vật chất. Vì Chúa ở tuyệt đỉnh của sự phi vật chất nên Người cũng ở tuyệt đỉnh của sự thông biết.
2.Sự thông biết của Thiên Chúa thì đích thực một cách tinh túy và đơn thuần (purely and simply actual). Nghĩa là Chúa biết mọi sự trong cùng một hành vi không thể phân chia.
3.Sự thông biết của Thiên Chúa thì tự tại. Người không những chỉ thông biết mà còn là chính sự thông biết.
4.Sự thông biết của Thiên Chúa thì được bao hàm trong chính Chúa. Nghĩa là Chúa hoàn toàn thông biết chính mình: “Không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được con khấng mạc khải cho” (Mt 11:27); “Thần khí dò thấu mọi sự, cả những chiều sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1Cor 2:10).
5.Sự thông biết của Thiên Chúa thì độc lập với những vật ngoài Chúa (extra-divine things).
6.Ðối tượng mô thể và chính yếu của sự nhận thức nơi Thiên Chúa là chính Thiên Chúa.
Bản chất của sự thông biết của Thiên Chúa:
1.Thiên Chúa là Ðấng tự biết Mình.
2.Thiên Chúa tri kỷ một cách triệt để.
3.Nơi Thiên Chúa hiểu biết cũng đồng nhất với bản thể.
4.Thiên Chúa nhận biết các tạo vật một cách tường tận, nhưng không biết trực tiếp trong chính các tạo vật mà trong chính Mình: “Trước mặt Người không một tạo vật nào lại là u uẩn; phải trước mặt Người, mọi sự đều bị lột trần, thất điên bát đảo, với Người, ta phải trả lẽ” (Heb 4:13).
5.Thiên Chúa biết riêng từng tạo vật: “Hai con chim sẻ há không bán một đồng tiền sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha các ngươi? Cả các sợi tóc trên đầu các ngươi cũng đã cộng sổ rồi” (Mt 10:29-30).
6.Kiến thức của Thiên Chúa với ý muốn kèm theo là nguyên nhân của vạn vật.
6a. “Cũng chính trong Ngài, ta đã được hưởng cơ nghiệp, thể theo dự định của Ðấng liễu thành vạn sự, chiếu theo đồ án của thánh ý Người” (Eph 1:11).
6b. “Nếu trái đất này không có thì không được chúng ta biết đến; nhưng nếu nó không được Thiên Chúa biết đến thì không có” (Thánh Augustinô).
6c. “Tất cả những gì hiện có, không phải vì hiện có nên đã được Thiên Chúa thấy từ muôn thuở, nhưng vì được Thiên Chúa thấy nên mới có” (Thánh Gregoriô Cả).
7.Thiên Chúavới sự thông biết vô cùng của Người:
a.biết mọi vật khả hữu (all that is merely possible)
b.mọi vật có thực trong quá khứ, hiện tại và tương lai: “Vì lời tôi chưa thập thò đầu lưỡi, mà kìa Yavê, Người đã biết hết” (Tv 139:4).
c.thấy trước các hành vi tự do trong tương lai của những vật có lý trí với một sự chắc chắn không thể sai lầm: “Vì chưng từ đầu, Ðức Yêsu đã biết ai là những kẻ không tin và ai là kẻ sẽ nộp Ngài” (Jn 6:24) (De fide)
8. Thiên Chúa biết những điều đơn độc (singular) và những điều vô cùng vô tận (infinite).
9.Sự thông biết hay kiến thức của Thiên Chúa thì bất biến.
10.Trong trí tuệ của Thiên Chúa có nhiều ý niệm nhưng không tương phản với sự đơn thuần của Thiên Chúa.
D. SỰ SỐNG NƠI THIÊN CHÚA:
1.Không phải mọi vật đều có sự sống, đều là sinh vật. Sự sống được nhận biết dựa trên các hoạt động. Theo Aristotle (384-322 BC), sự sống có 4 cấp: dinh dưỡng, di động, cảm giác và hiểu biết. Những sinh hoạt ấy thuộc phạm trù phụ thể (accidental).
2.Cha Joachim Nguyễn Văn Liêm, OP định nghĩa: “Sự sống là sự chuyển động nội phát và gồm hai điều: sinh vật chuyển mình bằng một nội căn; và sự chuyển động phải là nội cố. Sự chuyển động nội phát, một thứ hiện thể (actuality), nếu không thuần khiết, thì là sự vận chuyển hoàn chỉnh, mà sinh vật nhờ để phát triển chính mình, hoặc huy động mình làm việc; còn nếu là thuần khiết, thì là hiện thể thuần túy của biến căn bất khả biến (Uncaused Cause). Vì thế, nói cho sát nghĩa, sự sống ám chỉ chính bản thể, hay là bản tính có sở năng chuyển mình, mặc dầu nhờ sự sinh hoạt mà gọi là sinh vật, tức là vật có sự sống”.
3.Sự sống là điều phù hợp với Thiên Chúa: “Ðây, Ta giơ tay lên trời mà thề, và Ta nói: Cũng thực như Ta hằng sống đời đời” (Ðnl 32:40); “Vì cũng như Cha có sự sống trong mình, thì Người cũng ban cho Con có sự sống trong mình như vậy” (Ga 5:26) & Ga 14:6.
4.Nơi các sinh vật, hiện hữu là sinh sống: Thiên Chúa là chính Sự Sống của Mình.
5.Thánh Augustinô: “Chúa là Sự Sống của mọi sự sống”
“Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự và không Ngài thì không gì đã thành sự. Ðiều đã thành sự nơi Ngài là Sự Sống, và Sự Sống là Sự Sáng cho nhân loại” (Ga 1:3-4).
Thánh Augustinô giải thích hai câu trên với ví dụ con tàu nơi nghệ thuật và con tàu nơi thành phẩm. Con tàu nơi thành phẩm không phải là sự sống. Con tàu nơi nghệ thuật là sự sống vì sống trong tâm hồn nghệ sĩ. Do sự thông thái của Thiên Chúa mà muôn vật được tạo thành, nên theo nghệ thuật, sự thông thái ấy hàm chứa mọi vật trước khi chúng được tạo thành. Vì vậy, mọi sự được tạo thành đã là sự sống nơi Thiên Chúa.
Theo thánh Tôma, nơi Thiên Chúa, trí tuệ, sự hiểu biết, điều được biết và chính sự sống cũng là một, nên phàm chi được Chúa hiểu biết là sự sống nơi Thiên Chúa. Do đó, mọi tạo vật đều là sự sống nơi Thiên Chúa vì đều được Chúa hiểu biết.
E. Ý MUỐN CỦA THIÊN CHÚA
1.Thánh Ý của Thiên Chúa thì vô cùng (infinite) (De fide).
Thánh ý ở đây là một thứ ý muốn hoàn toàn tự do, nguyên nhân của sự tác tạo hoàn toàn tự do theo sở thích: “Hễ Yavê muốn gì, Người làm nấy, trên trời, dưới đất, trong biển và hết các vực thẳm” (Tv 135:6).
2.Ðối tượng chính yếu và mô thể của Thánh Ý và của Tình Yêu Chúa là chính Chúa: “mọi sự đã được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài” (Col 1:16). Các tạo vật là đối tượng thứ yếu và chất thể của Thánh Ý và Tình Yêu Chúa: “Vả lại, có gì tồn tại được, nếu Người không muốn” (Kn 11:25).
2.1Thiên Chúa chẳng những yêu mến chính Mình, lại yêu mến những vật khác. Yêu mến chính Mình như mục đích; yêu mến những vật khác như phải hướng tới đích.
2.2Thiên Chúa yêu mến sự tốt lành của Mình cách tất yếu; Người yêu mến các vật khác cách tự do hoặc giả định: “Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao?” (Mt 20:14).
2.3Thiên Chúa là nguyên nhân vạn vật do ý muốn, chứ không do bản tính.
2.4Thiên Chúa không vì điều này mà muốn điều kia, nhưng minh mẫn yêu điều này vì điều kia. Nghĩa là nơi Thiên Chúa chỉ có một hành vi duy nhất cực kỳ đơn thuần yêu mến cả mục đích và phương tiện một trật. Nơi Người, không có mục đích như lý do hay nguyên nhân mà chỉ có mục đích như cùng đích. Nói khác, ý muốn của Thiên Chúa là ý muốn hữu lý, tức là muốn và yêu tạo vật theo một trật tự lạ lùng và một sự minh mẫn kỳ diệu.
3.Ý chung quyết hay ý muốn tuyệt đối của Thiên Chúa luôn luôn thể hiện. Còn ý sơ quyết hay ý muốn hữu kiện thì không luôn luôn.
Ý chung quyết là ý muốn nhằm vào đối tượng với mọi hoàn cảnh (T, Tôma), là ý muốn đi sau sự qui định tự do của ý muốn (Molina). Ý sơ quyết hay ý muốn hữu kiện là ý muốn nhằm vào đối tượng suông và trơ trụi. Hữu kiện là về phía đối tượng vì Thiên Chúa muốn điều thiện này miễn là không có điều nào làm cho điều thiện ấy tương phản với điều thiện vĩ đại hơn (T, Tôma), là ý có trước việc dự kiến những hành vi của chúng ta (Monila).
Hạn từ ý sơ quyết và ý chung quyết do Thánh Gioan Damascena dùng. Cả ý sơ quyết và ý chung quyết của Thiên Chúa đều là hảo ý.
4.Ý định bất biến của Thiên Chúa không áp đặt sự tất yếu tuyệt đối trên mọi vật: “Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên con người, Người trao cho nó tâm thuật nó. Nếu con muốn, con sẽ giữ lịnh truyền, và trung tín là làm theo nhã ý của Người. Trước mặt con đã bày lửa nước, con thích gì, thì chìa tay lấy. Sống chết đôi ngả trước mặt con người: Nó thích gì, thì sẽ được ban cho” (Hc 15:14-17).
5.Tuyệt nhiên Thiên Chúa không muốn cũng không gây nên tội ác, dù cách ngẫu nhiên. Người chỉ mần thinh cho xảy ra. Vì thế, dưới bất cứ ý nghĩa nào, không thể nói Thiên Chúa là tác giả của tội lỗi.
Có ba thứ điều ác: điều ác vật lý, điều ác của hình phạt và điều ác luân lý (tội ác).
Thiên Chúa không muốn điều ác vật lý và điều ác của hình phạt như mục đích nhưng chỉ muốn chúng cách gián tiếp như phương tiện cho mục đích tốt hảo hơn trong trật tự tự nhiên và luân lý.
Thiên Chúa tuyệt nhiên dù trực tiếp hay gián tiếp không bao giờ muốn điều ác luân lý. Khi Kinh Thánh nói Thiên Chúa “làm cứng lòng” ai (Xh 4:21; Rom 9:18) không có nghĩa là Người là tác nhân của tội ác nhưng có nghĩa Người giữ lại ân sủng của Người như hình phạt đối với tội nhân.
Ðiều ác luân lý được Chúa mần thinh cho xảy ra vì Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của con người và vì Người có sự khôn ngoan và quyền năng biến đổi điều ác thành điều lành: “Các người mưu sự dữ hại tôi, Thiên Chúa lại mưu biến dữ hóa lành, để làm ra như đã thấy hôm nay: là cứu sống cả một dân lớn” (St 50:20). Và cuối cùng, theo Thánh Augustinô, điều ác luân lý xảy ra cho thấy lòng thương xót Chúa trong việc thứ tha và đức công bình của Người trong việc trừng phạt.
6.Thiên Chúa hoàn toàn tự do tự quyết khi ưa chuộng tạo vật: “Ấy vậy Người thương xót ai tùy Người muốn, và làm cứng lòng ai tùy Người muốn. Chừng ngươi muốn nói: Còn trách gì nữa? Vì ai nào đã cự lại được ý muốn của Người? Hỡi người phàm kia, ngươi là ai mà dám cãi trả lại Thiên Chúa?” (Rom 9:18-20).
Khả năng phạm tội là khuyết điểm chứ không phải là cốt tính của sự tự do tự quyết. Dù ý muốn của Chúa không thể phạm tội, nhưng vẫn có thể muốn điều thiện nọ hay điều thiện kia. Ðó là ý muốn tự do tuyệt đối như không thể sai lầm là thông tuệ tuyệt đối vậy.
7.Năm dấu chỉ thông thường của ý muốn Thiên Chúa là mệnh lệnh, khuyên nhủ, ngăn cấm, cho phép và hành động.
F. ÐẶC TÍNH VẬT LÝ CỦA Ý MUỐN THIÊN CHÚA:
1.Thiên Chúa thì toàn năng (almighty) (De fide).
Sức mạnh hay quyền năng là nguyên lý thực hiện điều mà lý trí biết được là ý muốn ra lệnh. Sự toàn năng (omnipotence) của Chúa có nghĩa là Người có sức mạnh thực hiện tất cả những gì Người muốn.
2.Thiên Chúa là Chúa Tể thống trị trời đất vạn vật (Lord of heaven and earth) (De fide).
Vì Chúa toàn năng, Người có quyền thống trị tối thượng (supreme dominion) gồm quyền cai quản không giới hạn (unlimited right of government) và sự thống trị không giới hạn (unlimited dominion) trên tất cả mọi tạo vật. Như thế, Người đòi hỏi các tạo vật có lý trí sự vâng phục tuyệt đối. Ðiều này được thực hiện qua việc chấp nhận Mạc Khải của Người, tuân giữ Các Ðiều Luật của Người và thờ lạy (adoration) Người.
G. THUỘC TÍNH LUÂN LÝ CỦA THÁNH Ý
ÐỨC CÔNG BÌNH:
1.Thiên Chúa thì công bình vô cùng (De fide).
Theo nghĩa rộng, công bình hay công chính (justice) như đồng nghĩa với chính trực (integrity) hay sự thánh thiện chủ quan (subjective holiness). Theo sát nghĩa, công bình là ý muốn chắc chắn trao cho mỗi người điều xứng hợp với họ.
“Người thật công chính, lạy Yavê, và chính trực trong các phán quyết của Người” (Tv 119:137).
Vì Thiên Chúa chính là Tạo Hóa và Chúa Tể vạn vật, không có tiêu chuẩn công bình nào vượt lên trên Người và chính Người là Tiêu Chuẩn Tối Cao.
Hình phạt Chúa dành cho tội nhân không những chỉ là phương thế để thăng tiến và cảnh cáo mà còn là sự đền trả cho những sự xúc phạm đối với Chúa và sự sửa chữa lại trật tự luân lý đã bị tổn thương bởi tội lỗi.
2. Nơi Thiên Chúa không có đức công bình giao hoán (commutative justice) nhưng có đức công bình phân phối đích thực (distributive justive): “Hay có ai đã cho Người trước, để hòng được Người tạ lại” (Rom 11:35).
Thiên Chúa thực hiện đức công bình phân phối nơi 3 điều sau:
a.phân phát những thiện ích tự nhiên và những trợ giúp siêu nhiên cần thiết để tạo vật theo đuổi cứu cánh.
b.trừng phạt kẻ gian ác vì tội đã phạm.
c.thăng thưởng như Chúa Giêsu đã công bố trong Hiến Chương Nước Trời.
LÒNG THƯƠNG XÓT:
1. Thiên Chúa thì thương xót vô cùng (De fide). Nơi Người có lòng thương xót đích thực. Lòng thương xót (mercy) của Thiên Chúa chính là sự thiện hảo tốt lành (benevolent goodness) của Thiên Chúa bởi lẽ nó cất đi những khốn khổ (tribulation) của tạo vật, nhất là những khốn khổ của tội lỗi.
2. Kinh Thánh chứng thực lòng thương xót của Chúa hơn mọi thuộc tính khác của Người: “Yavê trắc ẩn và từ bi, khoan dung và giàu ân nghĩa. Người không hạch tội luôn luôn, Người không cưu hờn mãi mãi, Người không xử với ta xứng tội của ta, Người không trả cho ta xứng lỗi ta làm” (Tv 103:8-10).
3. Lòng thương xót của Chúa thể hiện một cách rạng ngời hơn cả nơi việc nhập thể của Chúa Con để chuộc tội cho loài người: “Quả vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế (đó), đến đỗi thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời” (Ga 3:16) (Dt 4:15)
SỰ HIỆN DIỆN CỦA ÐỨC CÔNG BÌNH VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA:
Bất cứ trong công việc của Thiên Chúa cũng thấy có đức công bình và lòng thương xót của Người: “Yavê! Yavê! Thiên Chúa chạnh lòng thương, huệ ái, bao dung và đầy nhân nghĩa, tín thành. Giữ nghĩa cho đến ngàn đời, chịu đựng lỗi lầm, quá phạm, tội khiên, nhưng không coi tội như thể vô can. Ðấng trị tội cha trên con cháu ba bốn đời” (Ex 34:6-7); “Và ngươi biết rằng Thiên Chúa của ngươi, Người là Thần trung tín, Ðấng giữ giao ước, tín nghĩa với những ai yêu mến Người và nắm giữ các lịnh truyền của Người cho đến ngàn đời, Ðấng oán trả cho mỗi ai thù ghét Người, cho nó diệt vong, nơi chính thân mình nó” (Deut 7:9-10); “Người thật chí công, lạy Chúa! Mọi việc Người làm thảy đều chính đáng và các đường lối của Người đều là lân mẫn và sự thật. Chính Người xét xử thế giới” (Tob 3:2).
1.Công cuộc của đức công bình luôn xây dựng trên công cuộc của lòng thương xót: Mọi nợ nần phải trả cho tạo vật nào, đều vì một điều gì đã có trước nơi tạo vật ấy, mà mọi sự có nơi tạo vật ấy đều được ban từ lòng nhân lành của Chúa. Chúa luôn hoạt động nơi mỗi vật phù hợp với bản tính và cứu cánh của nó và phù hợp với thượng trí và ý định tốt lành của Người.
2.Lòng thương xót Chúa còn vượt lên trên và lướt thắng đức công bình bằng cách ban phát nhiều hơn những điều đức công bình đòi hỏi. Ðiều này chẳng những thể hiện nơi đau khổ của những kẻ lành mà cả nơi hình phạt của những kẻ trầm luân.
H. TÌNH YÊU NƠI THIÊN CHÚA
1.Tình yêu nơi Thiên Chúa, khác với tình yêu nơi tạo vật, không phải là hành vi của dục vọng giác cảm hay đam mê nhưng là hành vi của ý muốn hữu lý.
2.Nơi Thiên Chúa có tình yêu theo nghĩa đen chứ không chỉ theo nghĩa bóng mà thôi: “Thiên Chúa là lòng mến” (1Jn 4:16).
3.Thiên Chúa yêu thương mọi loài bằng tình yêu đích thực nghĩa là muốn sự lành cho chúng, là tác tạo chúng, là thông truyền sự thiện cho chúng.
4.Từ muôn thuở Chúa đã biết mọi vật nên Người yêu chúng từ muôn thuở “Từ xa Yavê đã hiện ra cho nó: Ta đã yêu ngươi, một tình yêu muôn đời, bởi thế với ngươi, Ta đã giữ bền lòng ân nghĩa” (Jer 31:3).
5.Thiên Chúa chỉ có tình yêu bằng hữu với tạo vật có lý trí vì chỉ những vật này có thể yêu lại và hiệp thông trong sinh hoạt, và chỉ những vật này mới có thể có tốt xấu, hạnh phúc và bất hạnh. Còn những vật vô linh, Người yêu bằng tình yêu như tham dục nghĩa là qui hướng chúng về các vật hữu linh.
6.Thiên Chúa yêu mến mọi loài mọi vật, nhưng không luôn yêu mọi điều trong mỗi vật. Như nơi tội nhân, Chúa yêu bản tính và bản vị, nhưng không yêu tội của họ.
7.Xét về hành vi yêu mến thì Thiên Chúa yêu mọi loài như nhau. Nhưng xét theo đối tượng thì Thiên Chúa không yêu mọi loài bằng nhau mà yêu mến đặc biệt những vật hoàn hảo hơn.
8.Vật này vật nọ hoàn hảo hơn vì được Chúa ban cho điều thiện lớn hơn, như thế là Thiên Chúa yêu hơn những vật hoàn hảo hơn: “…ngoài Ta, các ngươi không thể làm gì” (Jn 15:5).
I. CHÚA QUAN PHÒNG (PROVIDENCE)
1.Sự quan phòng của Chúa là chương trình hay kế hoạch (plan) hướng dẫn vạn vật đến cùng đích của chúng. Việc điều hợp hay là thảo chương trình như thể hiện trong trí tuệ của Chúa là sự quan phòng theo sát nghĩa, còn việc thi hành hay áp dụng chương trình ấy là sự cai trị.
2.Quan phòng được chia thành hai loại tự nhiên và siêu nhiên tùy theo mục đích hướng tới. Mỗi loại lại được chia thành chung hay riêng tùy theo đối tượng. Quan phòng siêu nhiên chung là việc Chúa trù liệu cho mọi vật hữu linh đầy đủ phương tiện để được cứu độ; còn quan phòng siêu nhiên riêng hay tiền định là việc Chúa trù liệu những phương tiện hiệu nghiệm để những ai được chọn đạt đến ơn cứu độ không thể sai trệch.
3.Rất nhiều nơi trong Thánh Kinh chỉ rõ sự Chúa quan phòng: “Kẻ bé người lớn cũng chính Chúa tạo dựng và Người săn sóc tất cả như nhau” (Khôn Ngoan 6:7).
4.Trong cả 5 cách minh chứng có Chúa của T. Tôma đều chỉ ra Thiên Chúa là Ðấng quan phòng. Nơi Thiên Chúa có sự quan phòng (De fide) là hành vi chính yếu của trí khôn, hiểu ngậm tác động của ý muốn.
5.Quan phòng khác với kiến thức. Kiến thức thì nhận biết mục đích và những phương tiện còn quan phòng thì phối trí và điều hợp những phương tiện ấy để đạt đích. Quan phòng cũng khác luật vĩnh hằng. Luật vĩnh hằng là trật tự tối cao trong trí tuệ Thiên Chúa còn quan phòng là như câu kết luận hay sự áp dụng luật ấy.
6.Sự quan phòng của Thiên Chúa bao trùm vạn vật, kể cả những vật tí hon, nên với Thiên Chúa không có gì là tình cờ (De fide).
7.Xét quan phòng như thảo kế hoạch thì Thiên Chúa trực tiếp quan phòng cho mọi vật; còn xét như thi hành kế hoạch thì Thiên Chúa quan phòng qua trung gian của những nguyên nhân đệ nhị (De fide).
8.Sự quan phòng của Thiên Chúa không áp đặt sự tất yếu cho tất cả các vật mà chỉ cho một số vật thôi (De fide); nghĩa là Chúa tôn trọng tự do của những vật hữu linh và thấy trước các hoạt động bất tất của chúng.
J. CHÚA TIỀN ÐỊNH (PREDESTINATION)
1.Theo nguyên nghĩa tiền định là dự tính trước. Theo nghĩa thực định, tiền định là chương trình chuyển đưa một số người vào sự sống đời đời; nghĩa là chương trình được dự kiến trong trí tuệ Thiên Chúa, theo đó Người quyết định thực sự đưa một số người đến hạnh phúc vĩnh hằng, một cứu cánh vượt quá sức tự nhiên của con người. Theo Thánh Augustinô, tiền định là “sự Thiên Chúa dự kiến và chuẩn bị những hồng ân để những ai được cứu độ thì rất chắc chắn được như vậy”.
2.Những chủ trương sau về tiền định đều sai lạc:
2.1Origen dạy rằng Chúa tiền định cho linh hồn được vinh quang vì công trạng linh ấy đã lập trong tiền kiếp trước khi phối hợp với thể xác.
2.2Pelage cho rằng Chúa tiền định cho những ai đã lập công trạng tự nhiên trong lúc sinh thời được vào vinh quang.
2.3Thuyết SemiPelage cho rằng những người do hoạt động tự nhiên khởi sự đi và bước vào con đường cứu độ thì được Chúa tiền định cho vào vinh quang.
2.4Một số thần học gia cho rằng Chúa định ban ân sủng và vinh quang trong ân sủng ấy và với ân sủng ấy cho những ai Người thấy trước sẽ nghiêm túc dùng ân sủng ấy.
2.5Lời cầu nguyện và những việc lành của ta có thể thay đổi những ý định của Thiên Chúa.
2.6Những lời cầu nguyện và việc lành của ta là hoàn toàn dư thừa và vô ích vì điều Chúa đã tiền định thì vượt trên tất cả dù cách sống của người ta xấu hay tốt.
3.Tiền định cho phàm nhân là việc xứng hợp với Thiên Chúa; và xét theo đối tượng, việc tiền định này là một phần của việc Chúa quan phòng: “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến hưởng Nước dành sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thành trời đất” (Mt 25:34). “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là những kẻ được Người kêu gọi, theo như ý Người định” (Rom 8:28-29).
4.Công Ðồng Carisiaco năm 853 dạy: “Con người lạm dụng tự do phạm tội và sa ngã, và làm thành ‘đám hư vong’ của cả nhân loại. Nhưng Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và công chính, theo dự kiến của Người, đã chọn trong đám hư vong ấy những kẻ mà Người dùng ơn tiền định cho được sống và được sống đời đời…”
5.Công Ðồng Valentino năm 855 dạy: “Chúng tôi tuyên xưng có ơn tiền định trường sinh cho những người được tuyển chọn, và chết đời đời cho những người ác; nhưng trong việc tuyển chọn những người được cứu rỗi, lòng thương xót của Thiên Chúa đi trước công trạng; trái lại, trong việc trừng trị những người hư vong, tội ác đi trước án công thẳng của Thiên Chúa”
6.Công Ðồng Trent dạy: “Ðang khi còn sống ở đời này, không ai được nương tựa càn dỡ vào mầu nhiệm bí ẩn của ơn tiền định, đến độ tin rằng mình được vào số những người được tiền định”
7.Việc tiền định nguyên nó không đặt gì vào người được tiền định; nhưng việc thi hành sự tiền định thì đặt vào người được tiền định nhiều điều.
8.Công hiệu trực tiếp của tiền định là: ơn kêu gọi, ơn thánh hóa và phúc vinh quang.
9.Thiên Chúa có ruồng bỏ, nhưng không ai bị trầm luân nếu không do tội ác đã được dự kiến.
9.1Thánh Kinh dạy: “Thiên Chúa không truyền cho ai làm điều gian ác, cũng chẳng cho phép ai phạm tội” (Gv 15:21) “Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai” (Gc 1:13).
9.2CÐ Arausicano dạy: “Chẳng những chúng tôi không tin có ai bị quyền năng của Thiên Chúa tiền định làm điều ác, và giả dụ có ai tin điều quái gở ấy, thì với nỗi ghê tởm chúng tôi ra vạ tuyệt thông cho họ”
9.3Công Ðồng Carisiaco dạy: “Thiên Chúa biết trước những ai sẽ hư đi, nhưng không tiền định cho họ hư đi…Thiên Chúa toàn năng muốn cho mọi người không trừ ai được cứu độ, dù trong thực tế không phải mọi người sẽ được cứu độ. Nhưng những người được cứu độ, thì đó là hồng ân của Ðấng độ trì; còn những người bị trầm luân, thì đó là công quả của họ”.
9.4CÐ Valentinô dạy: “Thiên Chúa biết trước là những người lương thiện sẽ lương thiện nhờ ân sủng của Người, và cũng nhờ một ân sủng mà được sự sống đời đời. Người cũng biết trước những người gian ác sẽ gian ác do sự gian ác của họ, và sẽ bị oán phạt do đức công bình của Người…Chúng tôi tin ‘không ai phải trầm luân vì bị Thiên Chúa khép án trước, nhưng do quả báo sự gian ác của họ”.
9.5Công đồng Trent ra vạ tuyệt thông cho những ai chủ trương con người không có tự do sống thiện hay ác nhưng chính Chúa đích thân thực hiện thiện ác . CÐ này cũng tuyên vạ cho ai tin rằng ơn công chính hóa chỉ được ban cho những người được tiền định để sống đời đời, còn những người khác dù được kêu gọi đấy, nhưng không được ân sủng vì đã bị quyền năng Thiên Chúa tiền định phải xấu xố.
9.6Tiền định hiểu ngậm sự lựa chọn và sủng ái hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa. Thành thử sự dự kiến công trạng của người được tiền định không phải nguyên nhân, mà là công hiệu của tiền định.
9.7Công Ðồng Arausicano II năm 529 dạy: Chính ân sủng giúp xin ân sủng. Ai không công nhận do ân sủng mà đức tin được tăng trưởng và chớm nở… nhưng là điều tự nhiên nơi ta thì tương phản với đức tin tông truyền. Thiên Chúa làm nhiều điều lành trong con người mà con người không làm, nhưng con người không làm điều gì lành mà Thiên Chúa không ban ơn để làm.
9.8Công hiệu của tiền định thì rất chắc chắn, không sai trệch; nhưng không vì thế mà áp đặt sự tất yếu trên tạo vật.
10.Những dấu hiệu được tiền định:
Giáo Hội dạy: Nếu không được mạc khải riêng, không ai biết chắc mình được tiền định. Thực tế, một số rất ít người như Thánh Phanxicô Assisi và ba trẻ ở Fatima được mạc khải như thế, nhưng Chúa không mạc khải cho ai biết mình sẽ phải trầm luân. Tuy nhiên, các nhà thần học đã căn cứ vào các dấu hiệu sau để phỏng đoán những người được tiền định:
10.1 Sống thường trực trong ơn thánh
10.2 Tinh thần cầu nguyện
10.3 Khiêm nhường đích thực
10.4 Nhẫn nại trong những nghịch cảnh
10.5 Thực thi đức ái với tha nhân qua những việc từ thiện và tông đồ
10.6 Thành thực và tha thiết yêu mến Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Thế
10.7 Sùng kính Ðức Mẹ, Ðấng Ðầy Ân Phúc.
10.8 Tha thiết yêu mến Giáo Hội là cơ quan phân phát ân sủng và Ðức Giáo Hoàng, Ðấng Ðại Diện Chúa Kitô.
11 Tiền định xét theo sự xếp đặt trước của Thiên Chúa thì không có sự cộng tác của ai hết. Nhưng xét theo việc thực hiện thì chấp nhận sự cộng tác của ta qua lời cầu nguyện và công trạng.
K. CHÚA BA NGÔI
Công Ðồng Vaticanô I phân biệt mầu nhiệm theo hai nghĩa:
1a. Mầu nhiệm theo nghĩa hẹp là những mầu nhiệm vượt quá sức trí khôn của mọi tạo vật. Ðó là những mầu nhiệm dấu ẩn trong Thiên Chúa và chỉ nhờ Thiên Chúa mạc khải ta mới biết được.
1b. Mầu nhiệm theo nghĩa rộng là những chân lý mạc khải khác của đức tin, như sự hiện hữu của Thiên Chúa, của hồn thiêng bất tử…, là những mầu nhiệm mà sức tự nhiên của trí khôn có thể biết được, dù trí khôn ấy phải dầy công suy diễn tìm hiểu, lại sự nhận biết này vẫn còn pha trộn những lầm lẫn.
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm theo nghĩa hẹp.
1c. Lý trí tự nhiên, trước cũng như sau khi Thiên Chúa mạc khải sự hiện hữu của Chúa Ba Ngôi không thể tự sức chứng minh có mầu nhiệm ấy (De fide).
2.Thiên Chúa có một bản tính nhưng có Ba Ngôi phân minh, nên nơi Thiên Chúa có
điều phải nói theo số một, có điều phải nói theo số nhiều, tùy những điều ấy chỉ yếu tính hay ngôi vị.
3.Tín điều Một Chúa Ba Ngôi gồm 4 điểm chính:
3a. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không phải là ba danh hiệu, hay là ba hình thức, hoặc là ba cấp tiến hóa của một Thiên Chúa tính duy nhất, mà là Ba Ngôi thực sự phân biệt nhau, đến nỗi chỉ có một Ngôi có thể và đã thực sự nhập thể làm Người, mà không thể nói như vậy về hai ngôi khác.
3b. Ba Ngôi đều đồng bản thể, đồng bản tính, đồng quyền năng, vì có cùng một yếu tính Thiên Chúa đích thực, trọn vẹn, không chia cắt.
3c. Giữa Ba Ngôi có một trật tự tự nhiên, không thể đảo ngược. Ngôi Nhất là Cha, là Nguyên khởi vô Nguyên khởi của hai Ngôi khác; Ngôi Hai là Con, phát xuất bởi Ngôi Cha theo lối sinh sản; còn Ngôi Ba là Thánh Thần, phát xuất bởi Ngôi Cha và Ngôi Con như bởi một Nguyên khởi duy nhất và cũng do một nhiệm xuy duy nhất.
3d. Dẫu Ba Ngôi có phân biệt nhau theo trật tự trên đây, nhưng là một hữu thể tối cao và tuyệt đối, một bản tính và yếu tính Thiên Chúa, một Thiên Chúa.
4.Chúa Cha không sinh thành ra Chúa Con do ý muốn tiền xuất, chẳng kỳ hiểu ý muốn này như bản tính hay như ý muốn, tức là tài năng tự do (De fide)
Có thể nói rằng Chúa Cha sinh thành ra Chúa Con với ý muốn tháp tùng.Thánh Bilario viết: “Chúa Cha sinh thành ra Chúa Con không do sự tất yếu thúc đẩy”. Thánh Augustinô viết: “Không do ý muốn, cũng không do sự tất yếu tự nhiên”.
5.Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuy ra Chúa Thánh Thần do ý muốn tiền xuất như bản tính, chứ không như ý muốn, tức là tài năng tự do
6.Sự dị biệt căn bản giữa việc sinh thành và chủ xuy: Sinh thành là hành vi của trí tuệ, dù có ý muốn tháp tùng; còn chủ xuy là hành vi của ý muốn tiền xuất, của ý muốn như bản tính.Nơi Thiên Chúa có bốn tương quan thực định là phụ hệ, tử hệ, chủ xuy và thụ xuy; nhưng chỉ có ba tương quan đối lập nhau là phụ hệ, tử hệ và nhiệm xuất xuông.
8.Hoạt động ngoại thị của Ba Ngôi là hoạt động thuần nhất.
9.Sự hiện diện của Thiên Chúa:
9a. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong các vật hệ tại tương quan thực định của các vật đối với Thiên Chúa và tương quan lý định của Thiên Chúa với tạo vật.
9b. Nguyên nhân mô thể của sự Thiên Chúa hiện hữu trong vạn vật là hoạt động của Người trong các vật ấy. Mọi tạo vật phải tiếp cận với sức mạnh của Thiên Chúa bằng bốn cách: để có, để được bảo tồn, để những tài năng được áp dụng vào những hoạt động tương ứng, để phát sinh những thành quả trong hoạt động.
9c. Thiên Chúa hiện diện nơi tạo vật ba cách:
- Theo sự mênh mông hoặc như Một Thiên Chúa (vạn vật)
ii) Theo Bản Thể của Ba Ngôi hoặc như Chúa Ba Ngôi (ân sủng trong người lành)
iii) Theo lối Ngôi hiệp (Chúa Giêsu)
10.Sự hiện diện của Thiên Chúa trong linh hồn người công chính là sự hiện diện thiết thực theo bản tính; thực sự khác biệt với sự hiện hữu theo vô biên tính, nhưng ngậm hiểu sự hiện hữu ấy.
11.Thánh sủng, nhờ những tác động hiểu biết và yêu mến, là nguyên nhân mô thể của việc Chúa Ba Ngôi lập cư trong linh hồn người công chính: a) không phải là công hiệu nào thuộc phạm vi tự nhiên; b) không phải như ơn ban nhưng không; c) không phải như công hiệu siêu nhiên của Thiên Chúa; d) nhưng với tác dộng nhận biết và yêu mến.
Thánh Tôma: “Ta nói chiếm hữu một vật là khi ta có thể tự do sử dụng và hưởng dùng vật ấy. Nhưng chỉ có thánh sủng ban cho ta khả năng vui hưởng các Ngôi Thiên Chúa”.
Mặc dù Chúa hiện hữu trong vạn vật theo hiện diện theo quyền năng và theo
yếu tính, nhưng ta không nói là Chúa lập cư trong các vật ấy, mà chỉ nói là lập cư trong
chư thánh bằng ân sủng. Vì Thiên Chúa ở trong vạn vật bằng hoạt động, nghĩa là phối
hiệp với các vật ấy như ban cho chúng được hiện hữu và tồn tại. Nhưng Chúa lập cư
trong chư thánh bằng hoạt động của chính chư thánh, nhờ đó các ngài đạt tới Thiên Chúa và chiếm hữu Người cách nào đó, ấy là nhận biết và yêu mến Người. Vì ai biết và yêu kể là có vật được biết và yêu trong mình.
Thánh sủng là sự thông dự thể lý và mô thể bản tính Thiên Chúa: “thông dự thể lý” là có ý ám chỉ điều nội tại liên kết với linh hồn, chứ không phải điều gì hoàn toàn tinh thần bề ngoài; “thông dự mô thể” nghĩa là sự thông dự bản tính Chúa Ba Ngôi theo Thiên Chúa tính, chứ không phải bất cứ lối thông dự nào như thấy trong các vật.
Tuy nhiên đây không phải là sự thông dự đơn nghĩa mà là sự thông dự loại suy hay tương tự; nghĩa là việc chúng ta thông dự bản tính của Thiên Chúa khác xa việc Ba Ngôi thông dự bản tính ấy.
L. THIÊN CHÚA TẠO THÀNH
Theo Thánh Kinh: Thiên Chúa là nguyên nhân duy nhất của mọi loài, tách biệt với tất cả và từng vật. Ðiều này được đọc thấy trong Sách Sáng Thế, các Thánh Vịnh 8:4; 18:2,6: 64:7; 144:10; 146:4,8; Sách Khôn Ngoan 14,15; Rom 1.
A. Giáo Hội buộc tin như sau:
1.Công Ðồng Chung Lat. IV tuyên xưng:
1a. Thiên Chúa có Ba Ngôi, nhưng chỉ là một nguyên khởi của mọi vật.
1b. Thiên Chúa là Ðấng tạo thành mọi vật, vô hình và hữu hình.
1c. Thiên Chúa tạo thành từ hư vô do quyền lực vô cùng của Người trong thời gian hay từ khởi đầu thời gian.
1d. Có ba loài thụ tạo là: thiêng liêng hay thiên thần; vật thể hay phàm trần; hỗn hợp là nhân loại có hồn thiêng và thể xác.
1e. Loài người được dựng nên sau thiên thần.
1f. Ðiều ác không do Thiên Chúa, là Ðấng dựng nên bản tính tốt lành, mà do sự tự do của loài thụ tạo.
Công Ðồng Chung Vatican I nhắc lại những điều trên và thêm: “Phải tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng khác biệt với thế giới một cách thiết thực và theo yếu tính, tự Mình vẫn cực kỳ hạnh phúc.
2.Không có chất thể đồng vĩnh hằng và không do Thiên Chúa tạo dựng.
3.Vạn vật không lưu xuất bởi bản thể Thiên Chúa hay do yếu tính của Thiên Chúa biến hóa ra.
4.Thiên Chúa với ý định tự do đã lấy lòng nhân lành và dựng nên vũ trụ, không phải để tăng thêm hay để chinh phục hạnh phúc của Mình, mà để tỏ ra sự trọn hảo của Mình khi thông điều thiện cho tạo vật.
5.Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ trong thời gian chứ không phải từ thuở đời đời.
6.Mọi vật do Thiên Chúa tạo thành đều tốt lành thật, vì được Ðấng tuyệt hảo tạo thành, nhưng hay thay đổi vì được tạo thành từ hư vô.
B.Thánh Tôma Tiến Sĩ dạy:
1.Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất của vạn vật:
1a. Thiên Chúa là tác căn đệ nhất của vạn vật.
1b. Thiên Chúa là mô biểu của vạn vật.
1c. Thiên Chúa là cứu cánh của vạn vật.
2.Cách thức vạn vật phát xuất từ Thiên Chúa:
2a. Tạo thành là sản xuất toàn thể hữu thể từ hư vô.
2b. Thiên Chúa có thể tạo thành vì nhất thiết phải sản xuất mọi vật từ hư vô.
2c. Xét về phía tạo vật, việc tạo thành là tương quan thực định của sự lệ thuộc trong hữu thể.
2d. Chỉ có những hữu thể lập hữu mới có thể được tạo thành.
2e. Tạo thành là công việc riêng và chuyên biệt của Thiên Chúa.
2f. Tạo thành là hành vi chung của Ba Ngôi Thiên Chúa.
2g. Vì được sáng tạo, mọi vật đều mang dấu ấn của Thiên Chúa Ba Ngôi.
2h. Những công trình của thiên nhiên và của nghệ thuật không phải là sáng tạo.
3.Về thời gian:
3a. Chỉ có một mình Thiên Chúa là Ðấng Hằng Hữu cách tất yếu.
3b. Việc vũ trụ xuất hiện trong thời gian là điều ta biết do đức tin, chứ không phải là điều có thể chứng minh.
3c. Vũ trụ được tạo thành lúc khởi đầu thời gian.
4.Căn nguyên phân biệt vạn vật:
4a. Do Thiên Chúa mà vạn vật vừa nhiều vừa phân biệt nhau.
4b. Cũng do Thiên Chúa và vạn vật khác nhau.
4c. Vũ trụ thì duy nhất trong trật tự và tương quan.
5.Bản tính điều ác:
5a. Ác là thiếu điều thiện.
5b. Ðiều ác ở nơi vạn vật là như thiếu hay là khiếm khuyết.
5c. Ðiều thiện là chủ thể của điều ác.
5d. Không thể có điều ác tuyệt đối.
5e. Mọi điều ác nơi tạo vật có lý trí thì hoặc là ác của hình phạt hay là ác của tội.
5f. Ðiều ác của tội thì ác hơn cái ác của hình phạt.
6.Nguyên nhân của điều ác:
6a. Ðiều ác là do điều thiện.
6b. Thiên Chúa là nguyên nhân gián tiếp của điều ác vật lý và cái ác của hình phạt; nhưng tuyệt đối không thể là nguyên nhân của cái ác tội lỗi.
6c. Không có cái cực ác là nguyên nhân của những điều ác.
C.Tạo thành là việc chung của cả Ba Ngôi Thiên Chúa nhưng phù hợp với từng Ngôi theo một trật tự:
1.Việc tạo thành phù hợp với Thiên Chúa theo yếu tính hay hữu thể của Người. Vì mọi tác căn đều hoạt động theo yếu tính của mình. Mà hiện hữu là tại mô thể, và nơi Thiên Chúa mô thể cũng chính là yếu tính của Người. Mà yếu tính hay hữu thể của Thiên Chúa là điều chung của cả Ba Ngôi, nên tạo thành là việc chung của Ba Ngôi.
2.Nguyên nhân trực tiếp tạo thành là quyền toàn năng của Thiên Chúa, mà quyền toàn năng là điều chung cho cả Ba Ngôi.
3.Việc tạo thành phù hợp với Thiên Chúa tính, nên Thiên Chúa tính phù hợp với mỗi Ngôi theo trật tự nào, thì việc tạo thành cũng phù hợp với mỗi Ngôi theo trật tự ấy.
3a. Chúa Cha là Nguyên Khởi vô nguyên khởi, nên việc tạo thành phù hợp với Chúa Cha như bởi Người: ex quo omnia.
3b. Chúa Con là Nguyên Khởi từ Nguyên Khởi, nên việc tạo thành phù hợp với Chúa Con như nhờ Người: per quem omnia.
3c. Chúa Thánh Thần thì từ cả Chúa Cha và Chúa Con, nên việc tạo thành phù hợp với Chúa Thánh Thần như Ðấng làm cho vạn vật được sống và tồn tại, vì thế gọi là trong Người: in quo omnia.
4. Thiên Chúa tạo thành bằng hiểu biết và ước muốn, là những phát xuất nội cố, nền tảng của những Nhiệm Xuất, nên việc phát xuất ngoại tại tức là việc tạo thành cũng phù hợp với mỗi Ngôi theo những dạng thức tương liên khác nhau. Ðàng khác, theo lối biệt ứng thì quyền năng được gán cho Chúa Cha, sự thông tuệ được gán cho Chúa Con, tình yêu được gán cho Chúa Thánh Thần.
PHẦN BA: CHÚA KITÔ-THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI
I. BẢN CHẤT CON NGƯỜI
A.Những điều buộc phải tin--De fide--về bản chất con người:
1.Con người đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng.
2.Con người bao gồm hai phần chính yếu là một thân thể hữu cơ (a material body) và một linh hồn thiêng liêng (a spiritual soul).
3.Linh hồn hiểu biếtù tự thể là mô thể bản thể của thân xác (The rational soul is per se the essential form of the body).
4.Mỗi một người có một linh hồn riêng (individual soul). Và linh hồn thì bất hoại và bất tử.
5.Thiên Chúa đã ban cho con người một chung cánh siêu nhiên; nghĩa là, Thiên Chúa không để con người ở trong bậc tự nhiên thuần túy nhưng đã đưa lên bậc công chính nguyên thủy.
6.Tổ tiên loài người trước khi sa ngã được phú ban ơn thánh sủng và được bất tử.
7.Tổ tiên con người trong Ðịa Ðàng đã phạm tội nặng nề qua việc chà đạp mệnh lệnh Thiên Chúa. Kết quả là bị mất ơn thánh sủng và khơi dạy sự giận dữ và cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa nên phải chết và bị lệ thuộc ma quỷ.
8.Tội Ađam được truyền lại cho con cháu không phải bởi bắt chước nhưng bởi di truyền. Nói khác, tội tổ tông được truyền lại bởi sinh truyền tự nhiên.
9.Ý muốn của con người, cả sau khi nguyên tổ phạm tội, vẫn tự do tự quyết.
10.Linh hồn những người qua đời trong tình trạng còn mang tội tổ tông không được phúc chiêm ngắm Thiên Chúa.
B.Việc tạo thành con người:
1.Linh hồn con người không lưu xuất bởi Thiên Chúa, cũng không phải là một phần bản thể của Thiên Chúa, nhưng được Thiên Chúa trực tiếp tạo thành trong lúc phú vào thân thể.
2.Không một động vật nào có thể, như chính căn và tự sức mình, sinh ra thân thể con người.
3.Ðộng vật hạ cấp có thể, như dụng căn theo nghĩa hẹp của Thiên Chúa, sinh ra thân thể con người.
4.Việc tạo dựng con người, trong mọi cảnh huống, đều đòi hỏi sự can thiệp của Thiên Chúa.
C.Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người:
1.Nơi con người có hình ảnh tương tự và rất khiếm khuyết của Thiên Chúa. Hình ảnh này, xét cách tuyệt đối, nơi các thiên thần thì hoàn bị hơn; nhưng xét về mặt thứ yếu thì nơi con người lại hoàn bị hơn nơi các thiên thần.
2.Nơi con người cũng có hình ảnh tương tự của Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh này chính yếu hệ tại những hành vi trí tuệ về Thiên Chúa và thứ yếu hệ tại những tập quán và những tài năng của trí khôn và ý muốn.
D.Khái niệm về các bậc sống (status) chung của con người:
Bậc sống thường được hiểu như tình trạng sinh sống bền vững. Các nhà thần học nói đến năm bậc là: bậc tự nhiên thuần túy, bậc được cất nhắc, bậc thánh thiện hay công chính nguyên thủy, bậc sa ngã và bậc hồi phục.
1.Bậc tự nhiên thuần túy là cảnh sống của con người với những năng lực thuộc bản tính hoàn toàn tự nhiên của mình. Ðây là một bậc giả định, không bao giờ có trong thực tế.
2.Bậc được cất nhắc là tình trạng con người được Thiên Chúa nâng lên trên bản tính tự nhiên, vì được quy hướng về cứu cánh siêu nhiên, và được trang bị cho những phương tiện cần thiết để đạt tới cứu cánh ấy, như ơn thánh hóa và các nhân đức.
3.Bậc thánh thiện hay công chính nguyên thủy là tình trạng của con người trước khi nguyên tổ Ađam sa ngã. Trong bậc này, ngoài những ơn của bậc siêu nhiên trên đây, bản tính con người còn được một chuỗi những hồng ân ngoại nhiên (prenatural) làm cho nó nên phong phú phi thường, để theo đuổi cứu cánh siêu nhiên, như ơn làm cho lý trí trực tiếp phục tùng Thiên Chúa, xác thịt phục tùng linh hồn, và năng lực hạ cấp phục tùng năng lực của tinh thần, ơn vẹn toàn, ơn bá chủ vạn vật, ơn bất tử…
4.Bậc sa ngã là tình trạng của con con người sau khi nguyên tổ Ađam phạm tội, bị mất ân sủng và mọi hồng ân ngoại nhiên, trở nên bất lực, không thể đạt tới cứu cánh.
5.Bậc hồi phục là tình trạng sau khi Thiên Chúa không muốn cho loài người hư đi, nên đã quyết định cho Ngôi Lời nhập thể, cứu chữa con người, hồi phục con người trong tình trạng ân sủng và khả năng đạt tới cứu cánh.
E.Nguyên tổ trong bậc công chính nguyên thủy:
1.Yếu tính của bậc công chính nguyên thủy hệ tại trí khôn suy phục Thiên Chúa; nhưng cội rễ và lý do tiên quyết của bậc ấy là ơn thánh hóa.
2.Trong bậc vô tội, nguyên tổ Ađam không trực kiến Thiên Chúa theo yếu tính (phúc thanh nhàn khách thể), cũng không trực kiến yếu tính của các thiên thần, nhưng nhận biết Thiên Chúa và thiên thần cách hòan hảo hơn chúng ta.
3.Nguyên tổ biết bản tính của mọi động vật và muôn vật.
4.Ơn thứ nhất và căn bản nhất của bậc công chính nguyên thủy là ơn thánh hóa.
5.Trong bậc công chính nguyên thủy, nguyên tổ đã được ơn vẹn toàn (intergrity); nghĩa là ơn làm cho nguyên tổ chế ngự mọi giác dục và mọi xúc cảm, không cho chúng đi trước và đi ra ngoài trật tự của trí khôn.
6.Vì bản tính của mình và vì trí khôn trực tiếp tuân phục Thiên Chúa, nguyên tổ được ơn bá chủ vạn vật, ơn mà nguyên tổ xử dụng đối với mỗi vật khác.
7.Sự bất tử của nguyên tổ không hệ tại chất thể hay mô thể bất hoại, nhưng hệ tại năng lực ngoại nhiên trong linh hồn do Thiên Chúa trực tiếp phú ban một trật với ơn thánh hóa.
8.Trong bậc công chính nguyên thủy, nguyên tổ được ơn bất thụ cảm; nghĩa là không cảm thấy những phiền hà phát xuất do nội hay ngoại căn quấy phá cuộc an sinh của tâm hồn và thể xác.
9.Ơn thánh hóa là ơn siêu nhiên theo bản thể; còn những hồng ân khác của bậc công chính nguyên thủy là những ơn ngoại nhiên; nhưng tất cả đều là những ơn nhưng không.
II. CHÚA GIÊSU-KITÔ: THIÊN CHÚA THẬT VÀ NGƯỜI THẬT
A.Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa Thật và là Con Thiên Chúa Thật (De fide).
1.Cựu Ước chỉ chứa đựng những dấu hiệu cho thấy Ðấng Mêsia là Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa khi diễn tả Ðấng Cứu Thế sẽ đến như một ngôn sứ (Deut 18;15,18), một tư tế (Ps 109:4), một mục tử (Ez 34:23), một vị vua và Chúa Thượng (Ps 2, 44, 109; Zach 9:9), một tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa (Is 53) và gọi Người là Con Thiên Chúa (Ps 2:7; 109:3).
2.Phẩm giá thần thiêng của Ðấng Mêsia cũng được thể hiện nơi cách gọi Người là Emmanuel-Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Is 7:14; 8:8), Mưu Sư Kỳ Diệu, Thần Anh Dũng, Cha Ðời Ðời, Vua Bình An (Is 9:5), với quyền bính bao la và triều đại vô tận (Is 9:6). Và các Phúc Âm đã nhiều lần xác nhận Chúa Giêsu đã làm trọn những lời tiên tri nói về Người.
3.Trong Tân Ước, chính Chúa Cha đã chứng nhận Chúa Giêsu là Con của Người khi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mt 3:17; Mc 1:11; Lc 3:22; Jn 1:34) và khi Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor (Mt 17:5; Mc 9:7; Lc 9:35; 2Pet 1:17).
4.Chúa Giêsu biết chính Người vượt trên mọi tạo vật, mọi người và thiên thần. Người cao trọng hơn các vua chúa và ngôn sứ của Cựu Ước như Salomon và Giona (Mt 12:41…; Lc 11:31…), Môsê và Eâlia (Mt 17:3; Mc 9:4; Lc 9:30); David phải gọi Người là Chúa (Mt 22:43…; Mc 12;36…; Lc 20:42…). Và kẻ bé nhất trong Nước Người còn trọng hơn Gioan Tẩy Giả (Mt 11:11; Lc 7:28).
Các thiên thần là tôi tớ của Chúa Giêsu. Các ngài đến và hầu hạ Người (Mt 4;15; Mc 1:13; Lc 4:13). Người có thể xin Chúa Cha các đạo binh thiên thần (Mt 16:53). Các thiên thần sẽ tháp tùng Người khi Người trở lại trong vinh quang (Mt 16:27, 25:31; Mc 8:38; Lc 9;26). Người sẽ truyền cho các thiên thần thu tập mọi người để phán xét (Mt 13:41, 24:31; Mc 13:27).
5.Chúa Giêsu dùng những kiểu nói về Giavê trong Cựu Ước để nói về chính Người. Như Giavê Người sai đi những tông đồ là những ngôn sứ Tân Ước (Mt 23:34; Lc 11:49) và hứa sẽ trợ giúp họ (Lc 21:15). Như Giavê Người là Chủ của Luật Cựu Ước nên có quyền làm hoàn thiện và thay đổi một số luật trong Cựu Ước (Mt 5:21). Người làm Chủ ngày Sabbath (Mt 12:8; Mc 2:28; Lc 6:5). Như Giavê Người lập một giao ước với con người (Mt 26:28; Mc 14:24; Lc 12:20). Như Giavê Người thiết lập một cộng đoàn những người tin (Mt 16:18).
6.Chúa Giêsu áp đặt những bổn phận lên các môn đệ, những điều mà không ai trừ Thiên Chúa có thể áp đặt lên con người; đòi họ phải tin Người và yêu mến Người trên hết (Mt 10:37) cũng như phải sẵn sàng thí mạng vì Người (Mt 10:39; Lc 17:33).
7.Chúa Giêsu ý thức mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Người (Mt 28:18). Người dùng quyền năng ấy để làm những phép lạ; thông ban quyền năng làm phép lạ nhân danh Người cho các môn đệ (Mt 10;1,8; Mc 3:15, 6:7; Lc 9:1,10,17). Người xác nhận có quyền tha tội dành riêng cho Thiên Chúa (Mt 9:2; Mc 2:5; Lc 5:20, 7:48) và ban quyền tha tội cho các tông đồ (Mt 16:19; 18:18; Jn 20:23). Người cũng xác định quyền xét xử thế gian như quyền của chính Giavê trong Cựu Ước (Mt 16:27).
8.Chúa Giêsu ý thức và nhận mình là Con Thiên Chúa. Người phân biệt rõ ràng tính cách là Con Thiên Chúa Ðích Thực của Người với tính cách là con cái Chúa như nghĩa tử của các môn đệ khi Người nói đến “Cha Ta” và “Cha các con”. Kinh Lạy Cha không phải là kinh riêng Người dùng nhưng là kinh Người dạy cho các môn đệ.
9.Chúa Giêsu tỏ ra mình là Con Thiên Chúa lần đầu trong Phúc Âm khi Người nói với Mẹ Người trong đền thờ là Người phải lo việc của Cha Người (Lc 2:49).
10.Người đã tuyên bố: “Mọi sự đều được Cha Ta giao phó cho Ta, và không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con khấng mạc khải cho” (Mt 11:27; Lc 10:22).
11.Trước tòa án Do thái, Chúa Giêsu nhận mình là Ðấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa (Mt 26:63; Mc 14:62).
12.Toàn bộ Phúc Âm theo Thánh Gioan nhắm vào việc chứng thực Chúa Giêsu là Ðấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa: “Các điều đã viết đây là để anh em tin rằng: Ðức Giêsu chính là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa; và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ Danh Ngài” (Jn 20:31). Trong Phúc Âm này, Chúa Giêsu chứng thực rằng Người được sai đến từ Cha Người từ trời; Người đến từ Chúa Cha và có trước từ đời đời; Người là một cùng Chúa Cha và mọi phép lạ Người làm đều là những dấu chỉ để chứng thực bản tính Thiên Chúa nơi Người
B.Chúa Giêsu Kitô là Người thật:
1.Ðức Kitô đã có một thân xác thực sự chứ không phải chỉ là một thân xác giống vậy (De fide).
2.Ðức Kitô không chỉ đã có một thân xác và còn có cả một linh hồn hiểu biết (rational soul) nữa (De fide).
3.Ðức Kitô đã thực sự được cưu mang và sinh ra từ một phụ nữ là con cháu Ađam là Ðức Trinh Nữ Maria (De fide).
C.Sự kết hợp của hai bản tính nơi một Ngôi Vị của Ðức Kitô:
1.Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người được kết hợp theo lối ngôi hiệp (united hypostatically) nơi Ðức Kitô; nghĩa là, liên kết với nhau trong một Ngôi Vị (De fide).
Công đồng Êphêsô (431) trình bày tín điều này như sau:
a.Ðức Kitô Nhập Thể (Christ-Incarnate) chỉ là một Ngôi Vị, một Ðấng duy nhất. Người vừa là Thiên Chúa vừa là người cùng một trật.
b.Ngôi Lời Thiên Chúa (God-Logos) được liên kết với thân xác bởi một sự kết hợp nội tại, vật lý hay bản thể (inner, physical or substantial unification). Ðức Kitô không phải chỉ là một người mang Thiên Chúa (bearer of God) nhưng thực sự là Thiên Chúa.
c.Những hoạt động nhân loại và thần linh được chỉ về Ðức Kitô trong Thánh Kinh và các tác phẩm của các Giáo Phụ không được phân chia giữa hai ngôi vị, Ðức Kitô Nhân Loại (the Man-Christ) và Ngôi Lời Thiên Chúa (the God-Logos), nhưng phải được quy về một Ðức Kitô là Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm. Ðó chính là Ngôi Lời Thiên Chúa đã chịu đau khổ nơi xác phàm, đã chịu đóng đinh, đã chịu chết và đã sống lại.
d.Ðức Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa vì Người thực sự đã sinh ra Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm Người.
2.Trong Ngôi Hiệp (Hypostatic Union) mỗi bản tính nơi Ðức Kitô tiếp tục không bị tổn thương, không bị biến đổi và không bị trộn lẫn với nhau (unimpaired, untransformed, unmixed) (De fide).
3.Mỗi bản tính nơi Ðức Kitô có ý muốn tự nhiên (natural will) riêng của nó và lối hoạt động tự nhiên (natural mode of operation) riêng của nó (De fide).
4.Ngôi hiệp của bản tính nhân loại và Ngôi Lời Thiên Chúa xảy ra lúc thụ thai (De fide).
5.Sự kết hợp nơi ngôi vị hay ngôi hiệp đã không bao giờ bị gián đoạn.
6.Ngôi hiệp sẽ không bao giờ chấm dứt (De fide).
7.Máu nơi Thân Mình Sống Ðộng của Ðức Giêsu Kitô là một thành tố cấu tạo của bản tính nhân loại được kết kết hợp trực tiếp (immediately) chứ không phải chỉ như trung gian (mediately) với Ngôi Vị của Ngôi Lời Thiên Chúa.
8.Việc mang lấy một bản tính thụ tạo vào sự hiệp nhất của một Ngôi Vị Thiên Chúa tuyệt đối là siêu nhiên. Ðó làmột ân sủng theo nghĩa hoàn hảo nhất của từ ngữ này; nghĩa là, một quà tặng siêu nhiên không có được bởi công phúc (unmerited) và không thể lập công để được (unmeritable) của Thiên Chúa.
9.Ngôi hiệp được thành sự do hoạt động chung của Ba Ngôi (De fide).
10.Chỉ có Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người (De fide).
11.Không những như Thiên Chúa mà còn như con người Ðức Giêsu Kitô là Con Tự Nhiên của Thiên Chúa (natural Son of God) (De fide).
12.Ðức Giêsu Kitô Thiên Chúa làm Người sẽ được tôn kính với một cách Thờ Phượng duy nhất, Sự Thờ Phượng Tối Cao (Worship of Latria) tuyệt đối chỉ tương hợp cho Thiên Chúa mà thôi (De fide).
13.Cũng như Latria được tương hợp với Cả Bản Tính Nhân Loại của Ðức Kitô, nó cũng tương hợp với từng phần của Bản Tính Người. Sự thờ lạy Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu như thờ lạy chính Thiên Chúa là hợp lẽ.
14.Những đặc tính và hoạt động Thiên Chúa và Nhân Loại của Ðức Kitô được chỉ cho một Ngôi Lời Nhập Thể (De fide).
Kinh Tin Kính Các Thánh Tông Ðồ quy về Con Thiên Chúa các đặc tính của nhân loại như được thụ thai, được sinh ra, chịu đau khổ và đóng đinh, chịu chết và chịu táng xác.
Thánh Kinh nhiều lần quy về Ðức Kitô các đặc tính của Thiên Chúa như: “Trước khi có Abraham thì đã có Ta” (Jn 8:58).
Bản chất của việc ngôi hiệp là thế: Một mặt ta có thể chỉ về ngôi vị của Ðức Kitô tất cả những gì thuộc về cả hai bản tính Thiên Chúa và nhân loại nơi Người, mặt khác ta không thể chỉ về một bản tính cụ thể nơi Người những gì chỉ thuộc về bản tính còn lại. Ví dụ: Ta có thể nói: “Con Người chết trên thập giá” hay “Chúa Giêsu tạo thành vũ trụ”. Nhưng thật sai nếu ta nói: “Ðức Kitô như Thiên Chúa đã đau khổ” hay “Ðức Kitô như một người phàm đã tạo thành thế giới” hoặc “linh hồn Ðức Kitô hiểu biết mọi sự”.
15.Hai bản tính của Chúa Giêsu hiện hữu trong một sự liên kết thân mật nhất (closest union).
III. THÊM MỘT SỐ ÐIỀU BUỘC TIN VỀ CHÚA GIÊSU-KITÔ:
1. Ðức Kitô không vướng bất cứ tội nào, từ tội nguyên tổ đến mọi thứ tội riêng.
2. Bản tính nhân loại của Ðức Kitô có thể chịu đau khổ.
3. Con Thiên Chúa đã làm người để cứu chuộc nhân loại.
4. Con người sa ngã không thể tự cứu rỗi mình.
5. Ðức Giêsu-Kitô Thiên Chúa làm Người là Linh Mục Thượng Phẩm (High Priest).
6. Ðức Kitô đã dâng hiến chính Mình trên Thánh Giá như một của lễ đích thực và xứng hợp.
7. Nhờ Hy Lễ trên Thánh Giá của Người, Ðức Kitô đã chuộc lại chúng ta và giao hòa chúng ta với Thiên Chúa.
8. Ðức Kitô không chỉ chết cho những người được cứu rỗi mà thôi (the predestined only).
9. Qua cuộc Thương Khó và Sự Chết của Người, Ðức Kitô đã lập công đáng thưởng với Thiên Chúa.
10. Sau khi chết, linh hồn Ðức Kitô đã được tách ra khỏi thân xác đã vào cõi kẻ chết (cõi âm ty).
11. Vào ngày thứ ba sau khi chết, Ðức Kitô đã chỗi dạy từ cỡi chết một cách vinh quang.
12. Ðức Kitô đã lên trời cả xác hồn và ngự bên hữu Chúa Cha.
IV MỘT SỐ ÐIỀU BUỘC TIN (DE FIDE) VỀ ÂN SỦNG:
1.Có sự can thiệp siêu nhiên (supernatural intervention) của Thiên Chúa nơi các quan năng của linh hồn, xảy ra trước hành vi tự do của ý chí.
2.Có ảnh hưởng siêu nhiên (supernatural influence) của Thiên Chúa nơi các quan năng của linh hồn xảy ra cùng lúc với hành động tự do của ý chí con người.
3.Cho mỗi việc lành (salutary act) ân sủng siêu nhiên bên trong của Thiên Chúa (gratia elevans) thì tuyệt đối cần thiết.
4.Ân sủng siêu nhiên bên trong thì tuyệt đối cần thiết cho việc khởi đầu đức tin và ơn cứu độ.
5.Không có sự trợ giúp đặc biệt của Thiên Chúa những người lành (justified) không thể bền đỗ đến cùng trong sự công chính.
6.Không có đặc ân riêng của ân sủng của Thiên Chúa, người được công chính hóa không thể suốt đời tránh được tất cả mọi tội lỗi, ngay cả những tội nhẹ.
7.Ngay cả trong tình trạng sa ngã, nhờ sức mạnh trí năng tự nhiên (natural intellectual power) của mình, con người có thể biết những chân lý tôn giáo và luân lý.
8.Ðể thực hiện một hành động luân lý tốt, ơn thánh sủng không buộc phải có.
9.Trong tình trạng của bản tính sa ngã không có Mạc Khải Siêu Nhiên, con người nói được là không thể (morally impossible) biết một cách dễ dàng, với sự chắc chắn tuyệt đối (absolute certainty) và không lầm lẫn sai lạc, tất cả các chân lý tôn giáo và luân lý của trật tự tự nhiên.
10.Ân sủng không thể lập công để có được bằng những việc tự nhiên.
11.Thiên Chúa ban cho mọi người lành ân sủng đầy đủ (sufficient grace) để tuân giữ các lề luật Chúa.
12.Ý chí con người vẫn tự do dưới ảnh hưởng của ân sủng có hiệu năng (efficacious grace) là ơn không phải bất khả chối từ (not irresistible).
13.Có ân sủng thực đầy đủ nhưng vẫn không sinh hiệu quả (vì con người khước từ).
MỘT SỐ ÐIỀU THUỜNG ÐƯỢC NHÌN NHẬN VỀ ÂN SỦNG:
1.Ơn hiện sủng một cách bên trong và trực tiếp soi sáng trí hiểu và tăng cường ý chí.
2.Những người đã được công chính hóa cũng đòi hỏi ơn hiện sủng để làm những việc lành.
3.Ân sủng đức tin không cần thiết để thực hiện một hành động luân lý tốt.
4.Ơn hiện sủng không cần thiết để thực hiện một hành động luân lý tốt.
5.Trong điều kiện của bản tính sa ngã khi không có ân sủng phục hồi, nói được rằng con người không thể thực hiện toàn thể luật luân lý và lướt thắng tất cả các cám dỗ nặng nề trong bất cứ một thời hạn đáng kể nào.
6.Ân sủng không thể kiếm được bởi những lời cầu xin phát sinh bởi những lời cầu nguyện thuần tự nhiên.
7.Tự mình con người không thể đạt được sự sẵn sàng tích cực nào để nhận ân sủng.
8.Bất kể tội lỗi của con người, Thiên Chúa thực sự và thiết tha mong muốn sự cứu độ của mọi người.
9.Thiên Chúa ban cho mọi tín hữu đang mang tội ân sủng đầy đủ để hối cải.
10.Thiên Chúa ban cho mọi người ngay lành không có đức tin (innocent unbelievers) ân sủng đầy đủ để đạt đến ơn cứu độ.
V. CÁC CĂN NGUYÊN CỦA VIỆC CÔNG CHÍNH HÓA:
Công đồng Tridentinô (Trent - 799) định nghĩa các căn nguyên sau cho việc công chính hóa:
1.Căn nguyên chung cánh (final cause) chính yếu là vinh danh (honor) Thiên Chúa và Ðức Kitô, thứ yếu là sự sống vĩnh hằng (eternal life) của con người.
2.Căn nguyên tác động (efficient cause), chính xác hơn, căn nguyên tác động chính, là lòng thương xót của Thiên Chúa.
3.Căn nguyên lập công (meritorious cause) là Chúa Giêsu Kitô, Ðấng là Trung Gian giữa Thiên Chúa và con người, đã đền bù tội lỗi cho chúng ta và lập nên ân sủng nhờ đó ta được nên công chính.
4.Căn nguyên khí cụ (instrumental cause) của sự công chính hóa đầu tiên là bí tích Rửa tội và đức tin là điều kiện cần có trước đó.
5.Căn nguyên mô thể (formal cause) là sự công chính của Thiên Chúa, không phải nhờ đó mà chính Người là công chính nhưng nhờ đó Người khiến ta nên công chính, đó là ơn thánh sủng.
CHUẨN BỊ ÐỂ ÐƯỢC CÔNG CHÍNH HÓA
1.Các tội nhân có thể và phải chuẩn bị cho mình với sự trợ giúp của ơn hiện sủng để đón nhận ân sủng nhờ đó để được nên công chính (De fide).
2.Sự công chính hóa nơi người lớn không thể có được nếu không có đức tin (De fide).
3.Bên cạnh đức tin phải có thêm những hành vi sẵn sàng (De fide).
4.Mức độ ơn thánh sủng không đồng nhất nơi các người lành (De fide).
5.Ân sủng có thể được gia tăng nhờ việc lành (De fide).
6.Ân sủng nhờ đó ta được nên công chính có thể bị mất và bị mất vì mỗi tội trọng (De fide).
7.Nhờ những việc lành của mình, người đã được công chính hóa thực sự đạt được sự xứng hợp phần thưởng siêu nhiên từ Thiên Chúa (De fide). Thánh Augustinô nói: “Phần thưởng được ban tặng cho những việc lành không thắng được nhờ những hành động có trước ân sủng, nhưng nhờ ân sủng, không lập được, đi trước những hành động để khiến cho những hành động ấy có thể được hoàn tất một cách có công nghiệp”
8.Một người đã được công chính hóa lập được cho chính mình qua mỗi việc lành một sự gia tăng ơn thánh sủng, sự sống vĩnh hằng và một sự gia tăng vinh quang Thiên đàng (De fide).
PHẦN BỐN: MẦU NHIỆM HỘI THÁNH
I. HỘI THÁNH CHÚA KITÔ
1.Hội Thánh là Nhiệm Thể (Mystical Body) của Chúa Giêsu Kitô
ÐGH Piô XII viết: “Ðể diễn tả Giáo Hội đích thực của Chúa Kitô-Giáo Hội Rôma Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền--không có một danh xưng nào cao thượng hơn, trỗi vượt hơn, thánh thiêng hơn danh xưng “Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Kitô” (TÐ Mystici Corporis, 1943).
2.Hội Thánh được thiết lập bởi Ðức Giêsu Kitô-Thiên Chúa làm Người (De fide).
ÐGH Piô X tuyên bố trong Lời Thề Chống Lại Tà Thuyết Hiện Ðại năm 1910: “Giáo Hội được thiết lập trực tiếp và đích thân bởi Chúa Kitô chân thực của lịch sử trong thời gian Người sống ở trần gian”.
3.Chúa Kitô đã thiết lập Hội Thánh để tiếp tục công trình cứu chuộc của Người qua mọi thời đại (De fide).
Tự mục đích và những phương thế Giáo Hội dùng để đạt đến mục đích ấy, Giáo Hội là một tổ chức tinh thần siêu nhiên (supernatural spiritual society).
Giáo Hội là một tổ chức hoàn bị.
ÐGH Leo XIII viết trong TÐ Immortale Dei năm 1864: “Giáo Hội, theo bản chất và các đặc quyền của nó, là một tổ chức hoàn bị, bởi lẽ nó chiếm hữu trong chính mình và bởi chính mình theo ý muốn và sự thiện hảo của Ðấng Sáng Lập của mình tất cả những gì cần thiết để hiện hữu và đạt được hiệu quả. Bởi mục đích Giáo Hội theo đuổi thì cao cả nhất, và cũng bởi quyền bính của nó trỗi vượt nhất và không thể bị xem là thua kém hơn các quyền bính xã hội và không bao giờ phải phụ thuộc quyền bính xã hội” và “Mỗi tổ chức (Giáo Hội và xã hội) có quyền theo bản chất riêng của mình, có những giới hạn nhất định, và phải ở trong các giới hạn ấy, những giới hạn đó được xác định bởi bản chất và mục đích trực tiếp của mỗi tổ chức”.
4.1Chúa Kitô ban cho Giáo Hội một cơ chế có phẩm trật (hierarchical constitution) (De fide).
4.2Những quyền bính được ban cho các tông đồ đã được xuống đến các giám mục (De fide).
4.3 Chúa Kitô đã đặt Tông Ðồ Phêrô làm đầu trong các Tông Ðồ và là Ðầu hữu hình của toàn thể Hội Thánh, qua việc trực tiếp và đích thân ban cho ngài quyền phán quyết ưu việt (primacy of jurisdiction) (De fide).
4.4 Theo mệnh lệnh của Chúa Kitô, Phêrô sẽ có những người kế vị trong Quyền Ưu Việt của người trên toàn thể Giáo Hội ở mọi thời (De fide).
4.5 Ðức Giáo Hàng có quyền phán quyết đầy đủ và tốt thượng trên toàn Giáo Hội, không phải chỉ trong những vấn đề đức tin và luân lý, nhưng còn trong kỷ luật và việc cai quản Giáo Hội (De fide).
4.6 Ðức Giáo Hoàng không thể sai lầm khi phán quyết ex cathedra (De fide).
4.7 Với quyền bính thần thiêng các giám mục có thường quyền cai quản (ordinary power of government)) trên các địa phận của các ngài (De fide).
4.9 Mỗi một giám mục nhận quyền mục vụ của mình trực tiếp từ Ðức Giáo Hoàng.
Tương quan giữa Chúa Kitô và Hội Thánh:
1.Chúa Kitô thiết lập Giáo Hội (De fide).
2.Chúa Kitô là Ðầu của Giáo Hội (De fide).
3.Chúa Kitô là Ðấng gìn giữ Giáo Hội. ÐGH Piô XII nói; “Chính Chúa Cứu Thế của chúng ta sẽ gìn giữ với quyền bính thần thiêng Giáo Hội, tổ chức được Người thiết lập”.
4.“Chúa Kitô là Ðấng Cứu Chuộc Thần Thiêng của Giáo Hội, Thân Mình Người” (ÐGH Piô XII).
Chúa Thánh Thần là Linh Hồn của Giáo Hội.
Thánh Irenaeus: “Nơi nào có Hội Thánh, nơi đó cũng có Thần Khí của Thiên Chúa; và nơi nào có Thần Khí của Thiên Chúa, nơi đó có Hội Thánh và mọi ân sủng”.
II. CÁC ÐẶC TÍNH CỦA HỘI THÁNH
1.Hội Thánh thì không thể hư hoại (indefectible); nghĩa là, nó tồn tại và sẽ tồn tại như một Cơ Chế Cứu Ðộ (Institution of Salvation), được thiết lập bởi Chúa Kitô, cho đến tận thế.
2.Trong phán quyết tối hậu về tín điều và luân lý, Hội Thánh bất khả ngộ (infallible), nghĩa là không thể sai lầm (De fide).
3.1Ðối tượng chính yếu của ơn bất khả ngộ là những chân lý mạc khải chính thức của Tín Lý Kitô liên hệ đến đức tin và luân lý (De fide).
3.2Ðối tượng thứ đến của ơn bất khả ngộ là những chân lý của giáo huấn Kitô về đức tin và luân lý, không được mạc khải chính thức, nhưng liên hệ mật thiết với các giáo huấn của Mạc Khải.
4.Toàn thể các giám mục được ơn bất khả ngộ khi các ngài họp nhau tại công đồng hay rải rác ở khắp nơi trên trái đất cùng đưa ra một giáo huấn về đức tin và luân lý như một điều mà mọi tín hữu phải tuân giữ (De fide).
5.Hội Thánh được thiết lập bởi Chúa Kitô là một thể chế hữu hình bề ngoài (an external visible commonwealth). ÐGH Leô XIII trong TÐ Satis Cognitum năm 1896 viết: “Khi ta hình dung mục đích tối hậu của Hội Thánh và những căn nguyên trực tiếp đưa đến sự thánh thiện, nó thực sự là tinh thần. Nhưng nếu ta xem xét những thành viên của Hội Thánh và những phương thế dẫn đến những tặng ân tinh thần, lúc ấy nó là bên ngoài và tất yếu hữu hình”. Nói khác đi, Hội Thánh gồm hai mặt, hữu hình và vô hình. Hữu hình nơi các thành viên và các nghi lễ, bí tích; vô hình nơi việc thánh hóa nội tâm các linh hồn, các chân lý đức tin, ân sủng và chính Chúa Thánh Thần, căn nguyên sự sống nội tại của Hội Thánh.
6.Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập thì độc đáo và duy nhất (unique and one) (De fide).
7.Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập thì thánh thiện (De fide). Giáo hội thánh thiện trong nguồn gốc, mục đích, phương thế và hoa trái của mình.
8.Không phải chỉ những thành viên thánh thiện mà ngay cả các tội nhân cũng thuộc về Hội Thánh. ÐGH Piô XII trong TÐ Mystici Corporis viết: “Ly giáo, lạc giáo và bội giáo tự bản chất của chúng tách một người ra khỏi Thân Mình của Hội Thánh; nhưng không phải mọi tội, ngay cả tội trọng nhất, đều như thế cả”.
9.Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập thì công giáo (De fide).
Danh xưng Công Giáo được Thánh Ignatius Antioch xử dụng đầu tiên: “Nơi nào có Chúa Giêsu Kitô, nơi đó có Giáo Hội Công Giáo”.
Thánh Tôma đặt tính cách công giáo của Hội Thánh trên việc mở rộng phổ quát của nó trên khắp thế giới, sự phổ quát của các lớp người trong đó, và sự kéo dài phổ quát của nó từ thời Abel cho đến tận thế.
10.Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập là tông truyền (De fide).
Tín điều này khẳng định là Giáo Hội có nguồn gốc từ các tông đồ và luôn trung thành gắn bó với giáo huấn mà Giáo Hội đã nhận được từ các tông đồ. Các mục tử trong Giáo Hội liên hệ với các tông đồ do việc kế vị các ngài cách liên tục. Tính cách tông truyền này bảo đảm sự chuyển thông nguyên vẹn không tì ố niềm tin và cho thấy sự liên hệ chặt chẽ giữa Giáo Hội hôm nay và Giáo Hội thời các tông đồ.
Bốn đặc tính duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, bởi lẽ chúng xuất hiện bên ngoài và dễ dàng nhận biết, không những là những đặc tính của hữu thể nhưng đồng thời là những dấu chỉ bên ngoài của Hội Thánh đích thực của Chúa Kitô.
III. THÀNH VIÊN CỦA HỘI THÁNH
1.Phần tử của Hội Thánh là những ai:
a) lãnh nhận một cách có giá trị Bí Tích Rửa Tội
b) tuyên xưng đức tin chân thật của Hội Thánh
c) tham dự vào sự hiệp thông của Giáo Hội
Ba điều này khiến ta vâng phục quyền bính ba chiều của Hội Thánh là quyền tư tế, quyền giảng dạy và quyền mục tử.
2.Làm phần tử của Hội Thánh thì cần cho mọi người để được ơn cứu độ (De fide).
Thánh Cyprian: “Ngoài Hội Thánh không có ơn cứu độ”.
Hội Thánh là phương tiện cần thiết để đạt đến ơn cứu độ. Nhưng sự cần thiết của phương tiện không có nghĩa là sự cần thiết tuyệt đối, mà là sự cần thiết giả thiết (hypotheticalneccesity). Trong những hoàn cảnh đặc biệt như của việc ngay tình không biết (invincible ignorance) hay sự bất khả (incapability), việc làm phần tử đích thực của Giáo Hội có thể được thay thế bởi ước muốn như thế. Ðiều này không cần phải có cách tỏ tường, nhưng có thể bao gồm trong việc sẵn sàng về mặt luân lý trung thành thực thi ý Chúa. Với cách này, những người xem ra ở ngoài Giáo Hội vẫn có thể đạt đến ơn cứu độ.
Thánh Augustinô: “Có những người xem ra ở trong Giáo Hội nhưng thực ra đã bị tách ra khỏi Giáo Hội, và có những người xem ra ở ngoài Giáo Hội nhưng thực ra đã thuộc về Giáo Hội”.
IV. CÁC THÁNH THÔNG CÔNG
1.Các phần tử của Nước Thiên Chúa trên trái đất và trong thế giới bên kia được thánh hóa nhờ ơn cứu độ của Chúa Kitô được hiệp nhất với nhau trong một đời sống siêu nhiên chung (common supernatural life) với Ðầu của Hội Thánh và với nhau.
2.Với lời chuyển cầu (intercessory prayer) các tín hữu trên trái đất có thể xin được các tặng ân từ Thiên Chúa cho nhau.
3.Bởi các việc lành được thực hiện trong tình trạng ân sủng các tín hữu trên trái đất có thể lập được công nghiệp để xin ơn với Chúa như Chúa quy định (de congruo). ÐGH Piô XII nói rằng ơn cứu độ của nhiều người tùy thuộc vào những việc đền tạ tự nguyện của những phần tử của Nhiệm Thể Chúa Kitô.
4.Các tín hữu trên trái đất có thể đền tội thay cho nhau bằng những việc lành được thực hiện trong tình trạng ân sủng.
5.Tôn kính các thánh trên Thiên Ðàng và kêu cầu sự bầu cử của các ngài thì được phép và hữu ích (De fide).
6.Tôn kính di tích các thánh thì được phép và hữu ích (De fide).
7.Tôn kính hình ảnh các thánh thì được phép và hữu ích (De fide).
8.Các tín hữu còn sống có thể trợ giúp các linh hồn nơi luyện hình bằng sự chuyển cầu (De fide).
9.Các thánh trên Thiên Ðàng cũng có thể trợ giúp các linh hồn nơi luyện hình bằng sự chuyển cầu của các ngài
10.Các linh hồn nơi luyện hình có thể cầu bầu cho các phần tử khác trong Nhiệm Thân Chúa Kitô.
V. CÁC BÍ TÍCH
1.Các bí tích của Tân Ước là những dấu hiệu hữu hiệu của ân sủng được Chúa Kitô thiết lập
2.Dấu hiệu bên ngoài của các bí tích gồm hai phần chính là vật thể (chất thể-matter) và lời (mô thể-form).
3.Các bí tích của Tân Ước chứa đựng ân sủng mà chúng biểu hiện (signify) và ban ân sủng ấy cho những ai không cản trở (De fide).
4.Các bí tích hoạt động ex opere operato (De fide); nghĩa là, các bí tích hoạt động bởi quyền năng do việc hoàn tất các nghi thức bí tích.
5.Tất cả các bí tích của Tân Ước ban ơn thánh sủng cho những người lãnh nhận (De fide).
Công đồng Trent dạy: Nhờ các bí tích của Hội Thánh ơn thánh sủng bắt đầu hay được gia tăng hoặc được phục hồi nếu đã bị mất khi trước.
Những bí tích ban ơn thánh sủng lần đầu tiên hay phục hồi ơn thánh sủng sau khi đã bị mất được gọi là những bí tích của kẻ chết: Rửa Tội và Giải Tội.
Những bí tích làm gia tăng ơn thánh sủng sẵn có được gọi là những bí tích của kẻ sống: Thêm Sức, Thánh Thể, Xức Dầu Thánh, Truyền Chức Thánh, Hôn Phối.
6.Mỗi bí tích ban ân sủng đặc biệt của bí tích ấy.
7.Ba bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh tạo nên một dấu ấn (character), nghĩa là, một dấu thiêng liêng không thể xóa được (indelible spiritual mark), và vì vậy không thể được lập lại (De fide).
Dấu ấn của bí tích là một dấu thiêng liêng được in vào linh hồn (De fide).
Dấu ấn của bí tích ban sức mạnh để thực hiện những hành vi thờ phượng Kitô giáo.
Dấu ấn của bí tích còn mãi ít nhất là đến khi người mang nó qua đời (De fide).
8.Tất cả các bí tích của Tân Ước đã được thiết lập bởi Chúa Giêsu-Kitô (De fide).
Chúa Kitô đã thiết lập tất cả các bí tích một cách trực tiếp và đích thân (immediately and personally).
Chúa Kitô xác định bản thể (substance) của các bí tích. Hội Thánh không có quyền thay đổi chúng.
9.Có bảy bí tích trong Luật Mới (De fide).
10.Về phía Thiên Chúa, Người có thể chuyển thông ân sủng ngay cả không cần các bí tích. Về phía con người, các bí tích của Tân Ước thì cần thiết cho việc cứu độ nhân loại (De fide).
11.Thừa tác viên chính yếu (primary minister) của các bí tích chính là Chúa Giêsu-Kitô, Thiên Chúa làm người. Thừa tác viên thứ đến (secondary minister) của các bí tích là những người đang sống trên dương thế.
12.Giá trị và hiệu lực của các bí tích thì độc lập với sự chính thống (về đức tin) và tình trạng ân sủng của thừa tác viên.
13.Ðể ban phát các bí tích có giá trị cần thừa tác viên hoàn tất những dấu hiệu bí tích một cách xứng hợp (De fide). Hơn nữa, thừa tác viên ít nữa còn phải có ý làm theo điều Hội Thánh làm (De fide).
14.Chỉ có người đang sống trên dương thế mới có thể nhận lãnh một bí tích cách giá trị.
15.Trừ bí tích Giải Tội, giá trị (nội tại) của bí tích không đòi hỏi sự chính thống về mặt đức tin hay sự xứng đáng về luân lý của người nhận lãnh. Vì các bí tích nhận lãnh ân sủng để trao ban không từ phía thụ nhân hay thừa tác viên, nhưng từ chính Thiên Chúa, Ðấng Phát Sinh muôn ơn.
16.Ðể bí tích có giá trị trong trường hợp của người khôn lớn, ý muốn lãnh nhận bí tích thì cần thiết.
17.Với những thụ nhân khôn lớn, sự xứng đáng về luân lý thì cần thiết cho việc lãnh nhận cách xứng đáng hay có hiệu quả các bí tích (De fide).
18.Các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh, khi được nhận lãnh một cách thành sự nhưng không xứng đáng, phục hồi ân sủng bí tích sau khi cản trở luân lý được cất đi.
VI. BẢY BÍ TÍCH
A. BÍ TÍCH RỬA TỘI
1.Rửa Tội là một Bí Tích đích thực được Chúa Giêsu Kitô thiết lập (De fide).
2.Chất thể (matter) của Bí Tích Rửa Tội là nước thực sự và tự nhiên (De fide).
3.Mô thể (form) của Bí Tích Rửa Tội là những lời của thừa tác viên đọc khi rửa thụ nhân, những lời này phải chứa đựng công thức kêu cầu Chúa Ba Ngôi: “Tôi rửa…nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
4.Bí Tích Rửa Tội ban ơn công chính hóa (De fide).
5.Bí Tích Rửa Tội đem lại sự tẩy xóa mọi hình phạt của tội, cả hình phạt vĩnh hằng lẫn hình phạt tạm (De fide).
6.Ngay cả khi được lãnh nhận một cách bất xứng, Bí Tích Rửa Tội thành sự in vào linh hồn thụ nhân một dấu thiêng liêng không xóa được, Ấn Tích Rửa Tội, và vì vậy, Bí Tích này không thể được lập lại (De fide).
7.Rửa Tội bằng nước từ khi Phúc Âm được rao giảng thì cần thiết cho mọi người không trừ ai để được ơn cứu độ (De fide).
8.Trong trường hợp khẩn cấp, Phép Rửa Tội bằng nước có thể được thay thế bởi Phép Rửa bằng lửa (bởi ước ao) hay Phép Rửa bằng máu.
Công Ðồng Trent dạy rằng sự công chính hóa khỏi tội nguyên tổ không thể có được “ngoài phép rửa tái sinh hay sự ước ao chính điều ấy”.
St. Ambrose nói về Hoàng Ðế Valentine II chết khi chưa được rửa tội: “Ông nên được ơn mà ông đã ao ước chăng? Chắc chắn là được: Như ông đã ước ao, ông đã đạt được…Lòng khao khát đạo đức của ông đã tẩy sạch tội ông”.
9.Bí Tích Rửa Tội có thể được trao ban một cách thành sự bởi bất cứ ai (De fide).
10.Bí Tích Rửa Tội có thể được lãnh nhận một cách thành sự bởi bất cứ ai đang sống nơi trần thế mà chưa được Rửa Tội (De fide).
11. Bí Tích Rửa Tội của các trẻ em thì thành sự và hợp pháp (De fide).
B. BÍ TÍCH THÊM SỨC
1.Thêm Sức đáng được gọi là một Bí Tích thực sự (De fide).
2.Chất thể của Bí Tích Thêm Sức là dầu thánh đã được giám mục làm phép và mô thể là lời thừa tác viên đọc khi xức dầu lên trán thụ nhân.
3.Là một Bí Tích của kẻ sống, Bí Tích Thêm Sức làm gia tăng ơn thánh sủng.
4.Hiệu năng đặc biệt của Bí Tích Thêm Sức là việc kiện toàn Ơn Bí Tích Rửa Tội.
5.Bí Tích Thêm Sức in vào linh hồn một dấu thiêng liêng không thể xóa được, và vì vậy, không thể được lập lại (De fide).
6.Một người đã được rửa tội có thể được cứu rỗi ngay cả khi không lãnh nhận Thêm Sức.
7.Thừa tác viên nguyên thường (ordinary minister) của Bí Tích Thêm Sức là giám mục mà thôi (De fide).
8.Thừa tác viên ngoại thường của Bí Tích Thêm Sức là linh mục đã được nhận quyền bởi một giáo luật hay một sự ủy quyền của giám mục.
9.Bí Tích Thêm Sức có thể được lãnh nhận bởi bất cứ ai đã chịu phép rửa và chưa được Thêm Sức.
10.Sự lập lại Bí Tích Thêm Sức thì không giá trị và tội lỗi cách nặng nề.
C. BÍ TÍCH THÁNH THỂ
1.Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể một cách thực sự, có thật và một cách bản thể (truly, really, substantially) (De fide).
2.Chúa Kitô trở nên hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể bằng cách biến đổi tất cả chất bánh thành Mình Người và tất cả chất rượu thành Máu Người (De fide).
3.Các phụ thể (accidents) của bánh và rượu vẫn tiếp tục sau sự thay đổi của bản thể (substance) (De fide).
4.Mình và Máu Chúa Kitô cùng với Linh Hồn và Thiên Tính của Người và như thế Nguyên Cả Chúa Kitô (the Whole Christ) thực sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể (De fide).
5.Nguyên Cả Chúa Kitô hiện diện trong mỗi một hình bánh hay rượu (De fide).
6.Khi mỗi một hình bánh hay rượu đã được truyền phép được phân chia, Nguyên Cả Chúa Kitô hiện diện trong mỗi phần (De fide).
7.Sau khi Việc Truyền Phép đã hoàn tất Mình và Máu Thánh hiện diện luôn trong Bí Tích Thánh Thể (De fide).
8.Việc Thờ Phượng Thiên Chúa (latria) phải được dành cho Chúa Kitô hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể (De fide).
9.Sự Hiện Diện Thực Sự của Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể là một mầu nhiệm của đức tin.
10.Bí Tích Thánh Thể là một Bí Tích thực sự đã được Chúa Kitô thiết lập (De fide).
11.Chất thể của Bí Tích Thánh Thể là bánh mì và rượu nho (De fide).
12.Mô thể của Bí Tích Thánh Thể là những lời của Chúa Kitô lập Bí Tích này, được đọc khi truyền phép.
13.Hoa trái chính của Bí Tích Thánh Thể là sự kết hợp nội tại giữa thụ nhân và Chúa Kitô.
14.Bí Tích Thánh Thể, như lương thực cho linh hồn, gìn giữ và gia tăng sự sống siêu nhiên của linh hồn.
15.Bí Tích Thánh Thể là bảo chứng của phúc thiên đàng và của sự phục sinh của thân xác sau này.
16.Ðối với trẻ em chưa đến tuổi khôn, việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể không cần để được ơn cứu độ (De fide).
17.Đối với người lớn việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể thì cần thiết để được ơn cứu độ với sự cần thiết của luật truyền.
18.Sự lãnh nhận dưới cả hai hình thì không cần thiết cho bất cứ phần tử tín hữu nào, hoặc bởi luật Chúa hay như là phương thế để được cứu độ (De fide).
19.Quyền để truyền phép chỉ có ở linh mục đã được thụ phong thành sự (De fide).
20.Thừa tác viên nguyên thường của Bí Tích Thánh Thể là các tư tế và phó tế.
21.Bí Tích Thánh Thể có thể được lãnh nhận cách thành sự bởi bất cứ ai đã được rửa tội đang sống dưới trần, kể cả trẻ em (De fide).
22.Ðể lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể cách xứng đáng tình trạng ơn thánh (De fide) và tâm tình đạo đức xứng hợp thì cần thiết.
23.Thánh Lễ là một Hy Lễ đích thực và xứng hợp (De fide).
24.Trong Hy Lễ Thánh Lễ, Hy Lễ của Chúa Kitô trên Thánh Giá được làm hiện diện, kỷ niệm của nó được cử hành, và quyền năng cứu độ của nó được áp dụng (De fide).
25.Trong Hy Lễ Thánh Lễ và trong Hy Lễ Thánh Giá, Lễ Vật Hiến Tế và Linh Mục Tế Lễ Chính thì đồng nhất; chỉ có bản chất và cách thức dâng hiến là khác nhau (De fide).
26.Hành Ðộng Hiến Tế chính cốt ở việc biến đổi bản thể (Transubstantiation) mà thôi.
27.Hy Lễ Thánh Lễ không phải chỉ là một hy lễ chúc tụng và tạ ơn, nhưng còn là một hy lễ đền tội và xin ơn (De fide).
D. BÍ TÍCH GIẢI TỘI
1.Hội Thánh đã nhận từ Chúa Kitô quyền xóa những tội đã phạm sau khi rửa tội (De fide).
2.Bằng sự tha thứ của Hội Thánh các tội lỗi thực sự và lập tức được tẩy xóa (De fide).
3.Quyền tha thứ tội lỗi của Hội Thánh được áp dụng cho mọi tội lỗi không ngoại trừ tội nào (De fide).
4.Việc xử dụng quyền tha tội của Hội Thánh là một hành vi xét xử (De fide).
5.Sự tha thứ nơi Tòa Giải Tội là một Bí Tích thực sự và xứng hợp, khác biệt với Bí Tích Rửa Tội (De fide).
6.CÐ Trent định nghĩa: ăn năn tội hay lòng thống hối (contrition) là sự đau đớn trong linh hồn vì tội đã trót phạm, chán ghét tội lỗi và quyết ý không tái phạm trong tương lai. Lòng thống hối trọn hảo bắt nguồn từ đức mến trọn hảo dành cho Thiên Chúa, vì làm Chúa buồn lòng. Lòng thống hối bất toàn bắt nguồn từ đức mến bất toàn hay từ nỗi sợ mất phúc thiên đàng hoặc phải bị hình phạt hỏa ngục.
7.Lòng thống hối trọn hảo đem lại ơn công chính hóa cho người mắc tội trọng ngay cả trước khi lãnh nhận Bí Tích Giải Tội.
8.Sự công chính hóa bên ngoài bí tích được thực hiện nhờ lòng thống hối trọn hảo chỉ khi được kèm theo ước muốn lãnh nhận Bí Tích ấy (De fide).
9.Lòng thống hối phát sinh từ nguyên do sợ hãi thì thiện hảo về luân lý và là một hành vi siêu nhiên (De fide).
10.Lòng thống hối bất toàn đủ để được ơn tha tội trong Bí Tích Giải Tội.
11.Việc xưng tội thuộc về bí tích được Chúa quy định và cần thiết cho ơn cứu độ (De fide).
12.Theo luật Chúa tất cả các tội trọng tùy theo loại và số lượng cũng như bối cảnh làm đổi bản chất của chúng là đối tượng buộc phải xưng thú (De fide).
13.Việc xưng thú các tội nhẹ thì không cần thiết nhưng được phép và hữu ích (De fide).
14.Những tội đã được tha trực tiếp bởi Quyền Tha Buộc của Hội Thánh là đối tượng đủ cho việc xưng tội.
15.Tất cả những hình phạt tạm của tội không phải luôn luôn được Chúa tha cùng với tội và phần phạt đời đời (De fide).
16.Linh mục có quyền và bổn phận, tùy bản chất của các tội và khả năng của hối nhân, để đưa ra các việc đền tội tốt lành và xứng hợp (De fide).
17.Những việc đền tội ngoài bí tích như thực hành các phương thức đền tội tự nguyện hay nhẫn nại chịu đựng những gian nan Chúa gửi đến đều có giá trị đền bù (De fide).
18.Mô thể của Bí Tích giải tội cốt ở những lời trong công thức Giải Tội (De fide).
19.Lời Xá giải, kèm với hành vi thống hối của hối nhân, đem lại sự thứ tha tội lỗi (De fide).
20.Hiệu quả chính của Bí Tích Giải Tội là sự giao hòa giữa tội nhân với Thiên Chúa (De fide).
21.Những công nghiệp từ các việc lành đã được thực hiện trong tình trạng ơn thánh và đã mất vì tội trọng nay được phục hồi.
22.Bí Tích Giải Tội cần thiết cho ơn cứu độ cho những ai sau khi đã chịu phép Rửa Tội mà phạm tội trọng (De fide).
23.Những người nắm giữ Quyền Tha Tội của Giáo Hội là các giám mục và linh mục (De fide).
24.Lời tha tội của các phó tế hay giáo dân không phải là sự tha tội của bí tích (De fide).
25.Bí Tích Giải Tội có thể được lãnh nhận bởi bất cứ ai sau khi chịu phép Rửa Tội đã phạm tội nặng hay nhẹ (De fide).
26.Hội Thánh có quyền ban các ân xá (De fide).
27.Nguồn mạch của các ân xá là kho tàng đền bù của Hội Thánh gồm sự đền bù dồi dào của Chúa Kitô và các thánh.
28.Việc xử dụng các ân xá thì hữu ích và lành mạnh đối với các tín hữu (De fide).
E. BÍ TÍCH XỨC DẦU
1.Bí Tích Xức Dầu là một Bí Tích thực sự và xứng hợp được thiết lập bởi Chúa Kitô (De fide).
2.Chất thể của Bí Tích Xức Dầu là dầu olive hay các loại dầu từ thực vật (De fide).
3.Mô thể của Bí Tích Xức Dầu là lời nguyện linh mục đọc đi kèm với việc xức dầu (De fide).
4.Bí Tích Xức Dầu cho người bịnh ơn thánh sủng để phấn chấn và củng cố người ấy (De fide).
5.Bí Tích Xức Dầu đem lại sự tẩy xóa các tội trọng còn lại và các tội nhẹ (De fide).
6.Bí Tích Xức Dầu đôi khi đem lại sự hồi phục sức khỏe thể xác nếu điều này đem lại lợi ích siêu nhiên (De fide).
7.Bí Tích Xức Dầu tự nó thì không cần thiết cho ơn cứu độ.
8.Chỉ có các giám mục và linh mục mới cử hành Bí Tích Xức Dầu thành sự (De fide).
9.Bí Tích Xức Dầu chỉ được nhận bởi các tín hữu bị đau nặng (De fide). Nó có thể sẽ được lập lại.
F. BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC
1.Truyền Chức là một bí tích thực sự và xứng hợp được thiết lập bởi chính Chúa Kitô (De fide).
2.Việc thánh hiến của các linh mục là một Bí Tích (De fide).
3.Việc thánh hiến của một giám mục là một Bí Tích.
4.Các giám mục thì trỗi vượt (superior) các linh mục (De fide).
5.Chức phó tế là một Bí Tích.
6.Chất thể của Bí Tích Truyền Chức Phó Tế, Linh Mục và Giám Mục là việc đặt tay mà thôi. Việc trao các vật dụng (chén lễ, Sách Thánh…) thì không cần thiết cho việc thành sự của việc thánh hiến Phó Tế, Linh Mục và Giám Mục.
7.Mô thể của Bí Tích Truyền Chức Phó Tế, Linh Mục và Giám Mục cốt ở những lời kèm theo và xác định ý nghĩa việc đặt tay.
8.Bí Tích Truyền Chức ban ơn thánh sủng cho thụ nhân (De fide).
9.Bí Tích Truyền Chức in một dấu ấn vào thụ nhân (De fide).
10.Bí Tích Truyền Chức ban quyền thiêng liêng vĩnh viễn trên thụ nhân (De fide).
11.Người ban tất cả các cấp bậc của Bí Tích Truyền Chức, vừa bí tích và á bí tích, là giám mục đã được tấn phong thành sự (De fide).
12.Bí tích Truyền Chức có thể được lãnh nhận thành sự bởi người đã được rửa tội và thuộc phái nam mà thôi.
G. BÍ TÍCH HÔN PHỐI
1.Hôn Phối không được thiết lập bởi con người, nhưng bởi Thiên Chúa.
2.Hôn Phối là một Bí Tích thực sự và xứng hợp được Thiên Chúa thiết lập (De fide).
3.Mục đích chính của hôn phối là sinh sản và giáo dục con cái cũng như yêu thương săn sóc nhau.
4.Ðặc tính chính yếu của Bí Tích Hôn Phối là đơn hôn (monogamy) và vĩnh hôn (indissolubility).
5.Mỗi một khế ước hôn phối thành sự giữa hai Kitô hữu là một bí tích.
6.Từ khế ước của Bí Tích Hôn Phối nảy sinh Mối Liên Kết Hôn Phối (Bond of Marriage) ràng buộc cả hai người kết bạn làm thành một cộng đồng sống chung không thể phân rẽ suốt đời (a lifelong indivisible community of life) (De fide).
7.Bí Tích Hôn Phối ban ơn thánh sủng cho người kết bạn (De fide).
8.Hai người kết bạn là thừa tác viên của Bí Tích đối với nhau.
9.Hội Thánh có độc quyền ra luật và phân xử các vấn đề hôn phối của những người đã được rửa tội về tính cách bí tích của họ.
VII. CHUNG CÁNH CON NGƯỜI
A. SỰ CHẾT
1.Trong trật tự ơn cứu độ hiện nay sự chết là một hình phạt dành cho tội (De fide).
2.Mọi người mắc tội nguyên tổ đều theo luật phải chết (De fide).
3.Với sự chết khả năng lập công hay mắc tội chấm dứt.
4.Sự phán xét riêng xảy ra liền sau khi chết, trong đó bằng một Phán Quyết của Thiên Chúa, số phận đời đời của người chết sẽ được định đoạt.
B. THIÊN ÐÀNG
1.Linh hồn của những người lành khi chết không vướng mắc tội và các hình phạt phải đền vì tội bước vào thiên đàng (De fide).
2.Thêm vào hạnh phúc chính yếu của Thiên Ðàng phát sinh từ việc chiêm ngắm Chúa nhãn tiền, còn có một thứ hạnh phúc phụ thể phát sinh từ sự hiểu biết và lòng yêu các vật thọ sinh.
3.Hạnh phúc Thiên Ðàng kéo dài vĩnh viễn (De fide).
4.Mức độ hoàn hảo của Phúc Chiêm Ngưỡng Chúa được ban cho các người lành tùy thuộc công nghiệp của mỗi người (De fide).
C. HỎA NGỤC
1.Linh hồn của những người chết trong tình trạng còn mang các tội nặng riêng mình đã phạm phải vào hỏa ngục (De fide).
2.Hình phạt chính ở hỏa ngục là không được chiêm ngắm Chúa; ngoài ra, còn có những hình khổ giác quan nữa.
3.Hình phạt của hỏa ngục kéo dài vô tận (De fide).
4.Mức độ hình phạt của các kẻ bị hư mất phải chịu tùy theo tội lỗi của mỗi người.
D. LUYỆN NGỤC
1.Linh hồn của những người lành trong lúc chết còn vướng mắc tội nhẹ hay các hình phạt tạm vì tội phải vào luyện ngục (De fide).
2.Lửa luyện tội sẽ không còn sau Ngày Phán Xét Chung.
E. CHÚA KITÔ ÐẾN LẦN THỨ HAI
1.Ngày tận thế Chúa Kitô sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét (De fide).
2.Thời điểm của việc Chúa Kitô đến lần thứ hai loài người không được biết.
F. SỰ SỐNG LẠI CỦA KẺ CHẾT
1.Tất cả những người chết sẽ sống lại trong ngày sau hết với thân xác của họ (De fide).
2.Những người chết sẽ sống lại với cùng thân xác như họ đã có xưa kia (De fide).
3.Thân xác của người lành sẽ được biến đổi và trở nên giống khuôn mẫu Chúa Kitô Phục Sinh.
4.Thân xác của kẻ dữ sẽ sống lại trong sự không bị hư đi và bất tử nhưng không được biến đổi.
G. PHÁN XÉT CHUNG--CHUNG CÁNH CỦA THẾ GIỚI
1. Chúa Kitô trong lần đến thế gian lần thứ hai sẽ phán xét mọi người (De fide).
2. Thế giới hiện nay sẽ bị hủy diệt trong Ngày Sau Hết.
3. Thế giới hiện nay sẽ được phục hồi trong Ngày Sau Hết.