Nhảy đến nội dung

Tin là sẵn sàng sống theo lời Chúa - Đức tin

TIN LÀ SẴN SÀNG SỐNG THEO LỜI CHÚA KÊU GỌI

Đức tin không chỉ là lời tuyên xưng, mà là hành trình sống tỉnh thức và trung tín, trong niềm hy vọng được hứa và kho tàng đích thực nơi quê trời, vì: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hípri 11: 1)

1. Đêm của niềm tin

Đêm xuất hành của dân Israel là đêm kỳ lạ: một bên là cái chết của các con đầu lòng của người Ai Cập, một bên là máu chiên bôi trên cửa nhà dân Chúa, dấu hiệu cứu thoát. Nhưng trên tất cả, đó là đức tin. Đó không chỉ là một đêm trong lịch sử, mà là một đêm của niềm tin: “Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời hứa nào các ngài thêm can đảm” (Kn 18: 6).

Chính là đức tin: tin vào Lời hứa của Đấng đã từng thề với Abraham, với Isaác, với Giacóp; tin rằng “đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù” (Kn 18,7). Đức tin ấy không phải là mù quáng. Đó là “bằng chứng cho những điều ta không thấy”, là ánh sáng dẫn lối qua bóng tối dày đặc. Dân Chúa ra đi trong đêm, không vũ khí, không ngựa xe, chỉ có đức tin và lòng phó thác.

Đức tin không ẩn mình trong bóng tối và u ám; nó là ánh sáng soi rọi bóng tối của chúng ta…Đức tin chính là ánh sáng, bởi vì một khi ngọn lửa đức tin lụi tàn, mọi ánh sáng khác cũng bắt đầu lu mờ. Ánh sáng đức tin là độc nhất vô nhị, bởi nó có khả năng soi sáng mọi khía cạnh của sự tồn tại con người. Một ánh sáng không đến từ chính chúng ta nhưng đến từ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mặc khải tình yêu của Ngài, một tình yêu đi trước chúng ta và là nơi chúng ta có thể nương tựa để được an toàn và xây dựng cuộc sống” (Thông điệp Lumen Fidei của ĐTC Phanxicô, số 4, 2013).

Tác giả thư Do Thái đã khắc họa hành trình đức tin của Abraham như khởi đầu cho mọi người: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Hípri 11: 8). Đức tin là thế: không thấy rõ nhưng vẫn bước đi, không chắc chắn nhưng vẫn tin tưởng. Abraham sống trong lều, như một lữ hành, vì “Ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Hípri 11: 10).

Abraham không hiểu tại sao Thiên Chúa lại yêu cầu điều ấy. Nhưng ông không dừng lại ở những gì mình hiểu. Ông không hiểu hết ý Chúa, nhưng vẫn bước đi. Đức tin không loại bỏ lý trí, nhưng vượt qua giới hạn của lý trí để đặt trọn niềm tin vào Đấng hằng sống.

Không có đức tin nào không trải qua thử thách. Abraham không chỉ tin lúc ra đi, mà còn tin khi phải hiến tế Isaac: “Nhờ đức tin, khi bị thử thách, Abraham đã hiến tế Isaac; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một” (Hípri 11:17) vì: “Ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy” (Hípri 11:19).

Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Đức tin trở thành lịch sử trong cuộc đời của Abraham. Nghĩa là, bằng cuộc sống và gương mẫu của ông, Abraham dạy cho chúng ta cuộc hành trình này, con đường mà qua đó đức tin làm nên lịch sử. Thiên Chúa của Abraham trở thành “Thiên Chúa của tôi”, Thiên Chúa của lịch sử cá nhân của tôi, Đấng hướng dẫn bước chân tôi, Đấng không bỏ rơi tôi; Thiên Chúa của những ngày đời của tôi, người bạn đồng hành trong những cuộc phiêu lưu của tôi; Thiên Chúa Quan phòng” (Bài giáo lý về cầu nguyện, 03 tháng 6 năm 2020) [1]

Chúng ta, trong đời sống, cũng có những “Isaac”,  những điều quý giá Thiên Chúa mời gọi ta buông bỏ: một ước mơ, một tình cảm, một sự an toàn... Không phải để đánh mất, mà để tìm lại trong vinh quang phục sinh khải hoàn.

2. Đức tin đã chiến thắng thế gian

Thư Do Thái cũng không quên nhắc đến bà Sara: “Nhờ đức tin, cả bà Sara vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Hípri11: 11). Bà từng cười nhạo ý nghĩ sẽ có con lúc đã già: “Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!” (Stk 18:12), nay lại là biểu tượng cho niềm tin phục sinh: “Một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Hípri 11:12). Qua Sara, ta thấy nơi điều tưởng như không thể, Thiên Chúa vẫn hành động. Đức tin làm cho kẻ “đã hết hy vọng” trở nên mẹ của muôn dân.

Chính nơi những gì không thể, Thiên Chúa thực hiện điều phi thường. Và nơi những người tưởng như đã “hết thời”, Chúa vẫn khơi dậy một tương lai. Bà Sara là hình mẫu đức tin của kẻ tưởng như đã hết hy vọng.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói: “Ai ở lại trong Thiên Chúa, ai được Thiên Chúa sinh ra, ai ở lại trong tình yêu, thì chiến thắng thế gian, và chiến thắng này là đức tin của chúng ta. Đối với chúng ta, đó là đức tin. Đối với Thiên Chúa, chính Chúa Thánh Thần làm cho chiến thắng này trở nên có thể nhờ đức tin. Sức mạnh của đức tin đã chiến thắng thế gian! Đức tin của chúng ta có thể làm được mọi sự!” (Đài phát thanh Vatican, 10 tháng 1 năm 2014) [2]

3. Đức tin là hành trình

Hành trình đức tin không luôn mang đến thành công chóng vánh. Nhưng những người tin, dù không “nhận lãnh” điều hứa, vẫn vui mừng vì họ đã được thấy từ xa: “Mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy” (Hípri 11:13).

Họ nhìn đời này như “lữ khách”, không bám víu vào quê hương trần thế, vì họ khao khát “Một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời”, và chính điều ấy làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Vì thế, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài” (Hípri 11:16).

Đức tin được nối kết với việc nghe. Abraham không nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng nghe thấy tiếng Ngài…Lời nói với Abraham chứa đựng cả kêu gọi lẫn hứa hẹn. Trước nhất, đó là lời kêu gọi lìa bỏ quê hương, lời mời gọi đi tới một cuộc sống mới, khởi đầu cho một xuất hành sẽ hướng ông tới một tương lai không dự đoán được… Đức tin “thấy” bao lâu nó tiến bước, bao lâu nó quyết định bước vào các chân trời do lời Thiên Chúa mở ra” (Thông điệp Lumen Fidei của ĐTC Phanxicô, số 8, 9)

Darwin Ramos sinh năm 1994 tại một khu ổ chuột ở Pasay, Philippines. Là con thứ hai trong gia đình nghèo 9 người con, và có người cha nghiện rượu, cậu vẫn kiên nhẫn và yêu thương các em. Năm 7 tuổi, Darwin mắc bệnh loạn dưỡng cơ - Duchenne muscular dystrophy - khiến cơ bắp dần teo liệt, không đi học được. Dù không thể đứng vững, cha cậu bắt cậu ra ga xin tiền và cùng em gái nhặt rác kiếm sống. Tuy xấu hổ, nhưng vì muốn giúp gia đình nên Darwin không trách cha.

Năm 2006, Darwin được Quỹ “Tulay ng Kabataan” đưa về trung tâm trẻ khuyết tật. Tại đây, cậu được rửa tội, rước lễ và bắt đầu hành trình đức tin sâu sắc. Cậu gọi bệnh tật là “sứ mạng”, kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Một ngày nọ, cậu nói với vị linh mục của Quỹ: “Cha biết không, con nghĩ Chúa Giêsu muốn con kiên trì đến cùng, giống như Chúa đã làm.”

Darwin đã vun đắp một mối tương quan cá nhân sâu sắc với Chúa Kitô; không một ngày nào trôi qua mà cậu không dành thời gian để phó thác bản thân cho Chúa. Một người chăm sóc từ quỹ đã làm chứng: “Dù Darwin bị sốt, cậu đã nài nỉ được giúp ra khỏi giường để cùng mọi người ở trung tâm cầu nguyện buổi tối. Đối với cậu, Chúa Giêsu là trên hết mọi thứ.”

Cuối tháng 9 năm 2012, Darwin nhập viện vì suy hô hấp. Trên giường bệnh, cậu xin lỗi linh mục vì đã “làm phiền” và để lại lời cuối trong sổ tay: “Con cảm ơn rất nhiều. Con rất hạnh phúc.” Darwin qua đời sáng Chúa nhật, ngày 23.9.2012, ở tuổi 17. Cuộc đời ngắn ngủi của cậu là chứng tá sống động cho đức tin đơn sơ, trung tín và đầy phó thác giữa đau khổ. [3]

Thư Do Thái cho thấy đức tin là hành trình dấn thân dù chưa thấy kết quả. Tin Mừng Luca mời gọi đi xa hơn: sống đức tin trong tỉnh thức và trung tín. Chúa Giêsu nói: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Ngài cho anh em” (Lc 12: 32). Nước Trời không chỉ là phần thưởng, mà là trách nhiệm được trao, là kho tàng cần canh giữ trong tỉnh thức: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” (Lc 12: 35).

Đức tin không dừng lại ở niềm tin, mà là đời sống sẵn sàng đón Chúa trở về bất ngờ. Chúa Giêsu cảnh báo: “Nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín” (Lc 12: 45). Nguy hiểm không phải là lỗi lầm, mà là sống như thể Thiên Chúa không bao giờ trở lại. Đức tin đích thực thúc đẩy hoán cải hôm nay, không trì hoãn.

Đức Giáo hoàng Phanxicô từng đặt cho chúng ta những câu hỏi: “Tôi có bị ràng buộc với những gì mình có không, với những ý tưởng của riêng mình, khép kín vào chính mình không? Hay tôi mở lòng ra với Thiên Chúa của những điều bất ngờ? Tôi là một người đứng yên hay là một người đang bước đi trong cuộc hành trình? Tôi có tin vào Chúa Giêsu Kitô và những gì Ngài đã làm không?, nghĩa là tin rằng Ngài đã chết, đã sống lại không?” (Bài suy niệm buổi sáng tại nhà nguyện Thánh Mátta, thứ Hai, 13/10/2014).

Sống đức tin không phải nắm giữ một mớ kiến thức thuộc lòng, mà là ra đi khỏi lối nghĩ, lối hành xử, kế hoạch, toan tính của riêng mình, nhưng tỉnh thức và phục vụ. Như Abraham sẵn sàng hiến tế con mình, chúng ta được mời gọi dâng chính mình, trong niềm tin vào Thiên Chúa, như của lễ mỗi ngày. Lạy Chúa, xin cho con tin như Abraham, tỉnh thức như người đầy tớ, và sống mỗi giây phút như thời khắc Chúa trở lại. Amen.

Phêrô Phạm Văn Trung

 

[1] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-06/dtc-phanxico-tiep-kien-chung-cau-nguyen-apraham.html

[2] https://www.indcatholicnews.com/news/23931?utm_source=chatgpt.com

[3] https://en.wikipedia.org/wiki/Darwin_Ramos?utm_source=chatgpt.com

+++++++++++++ 
 

ĐỨC TIN: CẢM XÚC HAY LÝ TRÍ?
 

Có nhiều người, dù có tôn giáo hay không, thường nghĩ rằng đức tin chỉ là cảm xúc, thậm chí là mù quáng. Trong khi một số khác cho rằng đức tin phải có cơ sở hợp lý, không thể chỉ tin “cho vui”. Thực ra, đức tin có thể là sự gặp gỡ giữa cảm xúc và lý trí, chứ không nhất thiết phải chọn một trong hai.

Nhưng trước tiên, cần làm rõ: chúng ta hiểu “đức tin” là gì?

1.     Đức tin không chỉ là một cảm giác mơ hồ

Chúng ta vẫn hay nói: “Tôi có đức tin.” Nhưng có bao giờ bạn tự hỏi: “Tôi tin vào điều gì?”, “Tại sao tôi lại tin?” và “Niềm tin đó giúp ích gì cho tôi?”

Nếu không trả lời được những câu hỏi đó, thì đức tin dễ trở thành sáo rỗng. Để thực sự có ý nghĩa, đức tin cần có “nội dung”. Và để nội dung ấy trở nên vững chắc, nó cần đứng trên ba “chân kiềng” là: kinh nghiệm tin tưởng ai đó hoặc điều gì đó trong quá khứ, hành động ở hiện tại dựa trên kinh nghiệm tin tưởng ấy và sự tín thác vào tương lai, hướng tới điều chưa thấy. Nếu thiếu một trong ba yếu tố này, đức tin dễ trở thành “niềm tin mù quáng” hoặc... ảo tưởng!

2.     Tin vào ai, vào điều gì?

Ai cũng có niềm tin vào một điều gì đó: có người tin vào khoa học, có người tin vào chính mình, có người tin vào lý trí, và có người tin vào Thiên Chúa. Nhưng tin vào điều gì cũng nên dựa trên kinh nghiệm thật, những trải nghiệm trước đó cho ta biết đối tượng đó có đáng tin hay không.

Ví dụ, bạn từng gửi xe ở tiệm A và chưa từng mất đồ, thì khả năng bạn sẽ tiếp tục gửi xe ở đó. Đó là một cách thực hành đức tin, dựa trên lý trí và trải nghiệm. Tương tự, nếu một người từng giữ lời, bạn dễ đặt niềm tin vào họ hơn là một người hay thất hứa.

3.     Khi cảm xúc gặp lý trí

Nhưng đức tin không chỉ có lý luận khô khan, cảm xúc cũng góp phần quan trọng. Theo Goleman, bộ não chúng ta phản ứng với những tình huống hiện tại dựa trên ký ức cảm xúc của quá khứ: “Tâm trí đầy cảm xúc cho rằng niềm tin của nó là hoàn toàn đúng, và do đó loại trừ mọi chứng cứ ngược lại. Đó là lý do tại sao rất khó để lý luận với một người đang buồn bã về mặt cảm xúc: bất kể lý luận của bạn có đúng lôgic hay không, lý luận đó của bạn sẽ không có trọng lượng nếu nó không phù hợp với xác tín đầy cảm xúc của người ấy vào thời điểm đó.” [1]

Nếu bạn từng trải nghiệm sự tin tưởng được đáp lại một cách tích cực, bạn sẽ dễ tin lần nữa. Nhưng nếu từng bị tổn thương, não bạn sẽ nhắc bạn “cẩn thận đó!”

Tin hay không tin vào ai đó không chỉ là “cân đo đong đếm” lý trí, mà còn là vết hằn sâu đậm của cảm xúc. Và điều thú vị là bộ não con người rất linh hoạt: chúng ta có thể học cách tin trở lại, hoặc ngược lại, học cách không còn đặt niềm tin sai chỗ.

4. Chia sẻ niềm tin

Những người trong Giáo Hội, đặc biệt là người công khai chia sẻ đức tin, cần hiểu một điều: mỗi cuộc gặp gỡ đều để lại cảm xúc trong lòng người khác. Nếu ta hành xử thô lỗ, người khác không chỉ mất niềm tin vào ta, mà còn có thể mất niềm tin vào những gì ta đại diện, kể cả Thiên Chúa.

Nhiều người mất niềm tin vào Thiên Chúa không phải vì giáo lý thần học, mà vì họ từng bị Kitô hữu nào đó làm tổn thương. Yêu cầu họ tin trở lại mà không nhận ra vết đau ấy là điều không thể làm được.

Goleman nhấn mạnh: “Tâm trí đầy cảm xúc cho rằng niềm tin của nó là hoàn toàn đúng, và do đó loại trừ mọi chứng cứ ngược lại. Đó là lý do tại sao rất khó để lý luận với một người đang gặp vấn đề về mặt cảm xúc: bất kể lý luận của bạn có đúng lôgic hay không, lý luận của bạn sẽ không có trọng lượng nếu nó không phù hợp với xác tín đầy cảm xúc của người ấy vào thời điểm đó.”

Khi cảm xúc mạnh mẽ lấn át, mọi lời lẽ hợp lý đều trở nên vô nghĩa. Vì vậy, đôi khi điều tốt nhất ta có thể làm là đồng hành, lắng nghe, tạo lại ký ức tích cực, chứ chưa vội lý luận.

4.     Kiên nhẫn là chìa khóa

Khi bị tổn hại, niềm tin không thể phục hồi trong ngày một ngày hai nhưng chỉ có thể được xây dựng lại một cách từ từ - nghĩa là xây dựng lại mối liên hệ cảm xúc với một loại sự kiện cụ thể. Thiệt hại nhiều hơn đòi hỏi nhiều thời gian và nỗ lực hơn. Chúng ta cần thời gian, cần kiên nhẫn. Chúng ta có thể trình bày những lập luận hợp lý, nhưng chỉ vào lúc thích hợp. Đó là lúc những kết nối cảm xúc được thay đổi và cõi lòng được biến đổi nhờ Chúa Kitô tác động trong đời sống để thiết lập những kết nối cảm xúc tích cực. Điều này chuẩn bị cho người ta chấp nhận những lập luận hợp lý được sử dụng để chứng minh độ đáng tin của Thiên Chúa trong Kitô giáo. Những lý lẽ chỉ phát huy tác dụng khi trái tim người nghe đã mở ra.

Và khi đến lúc, ta có thể dùng lý luận để cho thấy điều họ từng tin tưởng không đáng tin, đồng thời giúp họ nhận ra điều đáng tin hơn, đó là Chúa Giêsu.

5.     Đúng thời điểm

Tất cả những điều này phụ thuộc vào một yếu tố quan trọng: đúng thời điểm. Không phải lúc nào ta cũng biết được lòng người, bề ngoài họ có thể tỏ ra không có vấn đề gì, nhưng bên trong lại đầy tổn thương. Ta cần cầu nguyện, cần được Chúa hướng dẫn để biết khi nào nên nói, khi nào nên yên lặng.

Thiên Chúa không cần ta tranh cãi để thuyết phục người khác về với Ngài. Ngài chỉ cần trái tim biết lắng nghe và một chút khiêm nhường. Ta được mời gọi trở thành một phần trong kế hoạch yêu thương ấy, dù ta chỉ là một “người gieo hạt.”

Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ: “Hãy nhớ lại lời Đức Bênêđictô XVI đã nói: ‘Giáo hội không phát triển bằng cách cố gắng thuyết phục người khác theo đức tin của mình; Giáo hội phát triển bằng cách thu hút người khác’. Và điều thu hút chính là chứng tá của chúng ta, có nghĩa là làm chứng cho đức tin, kiên định trong cuộc sống cá nhân. Điều này không dễ dàng! Chúng ta giúp đỡ, chúng ta dẫn dắt người khác đến với Chúa Giêsu bằng lời nói và cuộc sống, bằng chứng tá của chúng ta…Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong trái tim của những người anh chị em chúng ta, trong thân xác bị thương của họ, trong những khó khăn của họ, trong sự thiếu đức tin của họ…Việc này đòi hỏi tình yêu, một tình yêu ngày càng mãnh liệt hơn đối với Chúa Kitô, một tình yêu dành cho dân của Ngài. Và tình yêu này không thể mua được ở các cửa hàng, ngay cả ở Rôma. Tình yêu này đến từ Chúa Kitô! Đó là món quà của Chúa Kitô!” [2]

6.     Đức tin không chỉ là cảm xúc hay lý trí

Vậy rốt cuộc, đức tin là gì? Là cảm xúc hay là lý trí? Liệu đức tin của chúng ta có khác với thế giới cảm xúc không? Là Kitô hữu, liệu những kinh nghiệm cảm xúc của chúng ta có khác với cảm xúc của những người ngoài Kitô giáo không? Kitô hữu ít có những cảm xúc tiêu cực như giận dữ, buồn bã, sợ hãi và có nhiều những cảm xúc tích cực như hạnh phúc, vui mừng, bình an và hy vọng, phải không?

“Kinh Thánh nói rõ rằng chúng ta là những con người tan vỡ đang sống trong một thế giới sa ngã (1 Phêrô 1: 6-7). Kết quả là, những phản ứng cảm xúc của chúng ta sẽ không hoàn hảo, ít nhất là không được như vậy trước khi Chúa Kitô trở lại…Việc mong muốn cảm xúc của mình hoàn toàn dễ chịu có thể dễ dàng dẫn đến những hậu quả không mong muốn. Thiên Chúa ban cho chúng ta lý trí và cảm xúc để hiểu thế giới xung quanh. Không một khả năng nào là hoàn toàn đủ nếu chỉ dựa vào một mình nó…Lý trí có giới hạn của nó. Cảm xúc không phải lúc nào cũng hoàn toàn hợp lý. Thiên Chúa ban cho chúng ta những khả năng này để cùng nhau hoạt động. Chỉ dựa vào một trong hai điều đó có thể dẫn đến cái nhìn lệch lạc về Thiên Chúa và thế giới.” [3]

Có một mục đích sâu xa trong cách Thiên Chúa tạo dựng thế giới này: để ta cứ mãi tìm kiếm, mãi khao khát hiểu biết, cho đến khi ta khám phá ra rằng nguồn của mọi hiểu biết không phải là một công thức, một lý thuyết, hoặc một kết quả từ suy luận của lý trí. Chúng ta có thể có hiểu biết về thực tại, nhưng không bao giờ hiểu biết đầy đủ đến mức chúng ta trở nên quá tự hãnh và rồi ngưng tìm kiếm nguồn gốc của mọi điều mà chúng ta biết. Nguồn hiểu biết đó là Một Đấng yêu thương chúng ta và đáng để chúng ta tin tưởng và tôn thờ. Đó là Thiên Chúa. Ngài dựng nên chúng ta vừa có lý trí vừa có cảm xúc. Chỉ khi khám phá và hiểu biết Thiên Chúa là ai thì việc tìm kiếm hiểu biết không ngừng của chúng ta mới được hoàn thành; và niềm tin của chúng ta vào Ngài, cho dù có khó khăn và đau đớn đến đâu về mặt cảm xúc, mãi mãi được biện minh và có giá trị lớn lao trước sự hiện diện của Đấng là nền tảng của lý trí, cũng là Đấng tạo ra cảm xúc của chúng ta và “Đấng hoàn thiện đức tin của chúng ta.”

Thiên Chúa dựng nên con người có lý trí để suy nghĩ, và có cảm xúc để rung động. Đức tin thực sự xảy ra khi cả hai hòa quyện. Vì dù lý trí có những lúc hoang mang, nghi ngờ, tối tăm, và trong cảm xúc lại thấy buồn chán, đau khổ, nổi giận… thì nơi cuối cùng mà đức tin được củng cố không phải chỉ trong nghĩ suy, mà còn trong lòng mến.

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] Goleman, Daniel, Emotional Intelligence: 10th Anniversary Edition; Why It Can Matter More Than IQ, https://en.wikipedia.org/wiki/Emotional_intelligence

[2] https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2013/september/documents/papa-francesco_20130927_pellegrinaggio-catechisti.html

[3] https://www.ctsnet.edu/at-this-point/emotions-faith-perplexing-relationship-feel-believe

 

Danh mục:
Tác giả: