Tôn sùng Mẫu Tâm
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Nam Hoa
Lòng thương xót Chúa
trải qua từ đời nọ đến đời kia
(Lc 1, 50)
Tôn sùng Mẫu Tâm
Trong Thánh Lễ Khai Mạc, tôi đã đọc thấy giòng chữ : Lòng Thương Xót Chúa trải qua từ đời nọ đến đời kia, bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, đặt trên tường cao của lễ đài, là khẩu hiệu chính cho đại hội năm nay. Đề tài trích từ Tin Mừng Luca, chương 1, vô cùng thích hợp cho Ngày Thánh Mẫu trong Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa.
Người Việt từ lâu đã có truyền thống tôn sùng Mẹ Maria, có thể tâm tình nầy có được do từ ngàn xưa, hình ảnh Người Mẹ cao quí luôn có trong tâm hồn dân Việt. Thời lập quốc, tổ mẫu Âu Cơ đã có vị trí cao trọng trong công cuộc dựng nước, và Việt Nam cổ đã từng có thời gian dài theo mẫu hệ thay vì phụ hệ như những dân tộc Á Châu khác cùng thời. Tâm tình đó hôm nay được nhìn rõ qua cách biểu lộ lòng tôn sùng của người mình dành cho Mẹ Maria, làm mọi người nô nức đổ xô về đây để sống những ngày bên Mẹ dịu dàng trong tâm tình con thảo, một nét đẹp của người mình, tôi nhìn thấy rõ hơn trong những ngày đại hội tại đây.
Chiều nay tôi dành cả buổi chiều “đi cầu nguyện” thay vì dự hội thảo, đối với tôi, cầu nguyện là việc không thể thiếu trong đời sống tôi rồi. Tạm chia tay với người chị họ vì chị thích nghe hội thảo, còn tôi lang thang ra ngoài tìm nơi thanh vắng cho giờ cầu nguyện thong dong. Tìm mãi chẳng có nơi nào thanh vắng trong khuôn viên đầy người, thôi thì tạm giữ tĩnh lặng cõi lòng và bước vào Đền Thánh Khiết Tâm, tôi mong tìm giây phút riêng với Mẹ để tâm tình.
Bước vào Đền Thánh Khiết Tâm cũng đầy người, tôi tìm cho mình một chỗ còn trống rất gần bàn thánh. 10 năm trước tôi buồn bực vì không tìm được nơi thanh vắng trong Đền Thánh dù 2, 3 giờ sáng vì lúc nào cũng có người đọc kinh chung; nhưng lần nầy tôi cảm thấy rất vui vẻ, tìm được một chỗ trống trong Đền Thánh giờ nầy là quí rồi, không dám phàn nàn chi cả. Cộng đoàn bắt đầu chặng đàng Thánh Giá vì hôm nay là chiều thứ sáu, những tiếng trầm bỗng ê a rặc giọng miền Bắc từ trước đến nay cất lên tôi ít được nghe. Vừa đứng lên, quì xuống theo mọi người, tôi vừa lắng nghe giọng điệu của Lời Kinh như khúc nhạc đặc biệt của âm thanh Việt Nam mà tôi thường gọi là khúc nhạc tâm linh, lắng vào tâm hồn, cho tâm tình thâm trầm hơn lần lượt đi qua 14 chặng đường Thánh Giá Chúa đi xưa. Tôi cảm nhận một Ơn Huệ tràn đầy không phải trong thinh lặng, nhưng trong tĩnh lặng, vì nếu không có đọc chung Chặng Đàng Thánh Giá với cộng đoàn, chắc gì tôi có dịp để lòng mình chìm đắm trong mầu nhiệm Thập Giá đầy khổ đau của Thầy Giêsu, ngay trong chiều nay. Đối với tôi mầu nhiệm Thánh Giá là đỉnh cao của Mầu Nhiệm Sự Sống: Chúa Giêsu đã chết để loài người được Sống, là nơi biểu lộ Tình Thương cao vời của Thiên Chúa dành cho con người, của chiến thắng sâu thẳm nhứt Chúa dùng để đánh bại Sự Dữ, là cây cầu Sự Sống lớn lao bắt qua giòng Sự Chết thành bài suy niệm rất lớn cho con người thời đại, đưa con người vượt qua cái chết của hủy diệt để tiến vào Sự Sống đời đời cho nhân loại, không phải chỉ có trên thiên đàng mà ngay hôm nay vì Thánh Giá là dấu hiệu chiến thắng những gian ác của thế gian trong Đường lối Thiên Chúa. Nhứt là dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô, tôi có được Mẹ Maria thành Mẹ của tôi.
Sau chặng đàng Thánh Giá, cộng đoàn đọc tiếp kinh Mân Côi, cho suy tư của tôi thành một giòng liên tục, liên lỉ không dừng, tôi vui mừng đọc theo. Dù không có thinh lặng, nhưng tôi biết lòng mình đã tĩnh lặng đủ để lắng nghe. Tôi thầm cám ơn Chúa, và Mẹ Maria nữa, đã dẫn dắt tôi đi qua con đường cầu nguyện đặc biệt của chiều nay, như con đường Ngài dẫn dắt tôi đi ròng rã mười mấy năm để học tĩnh lặng của tâm hồn, nơi tôi thường được Ngài cho gặp dù bất cứ đâu, một mình như những giờ cầu nguyện trong các khóa tĩnh tâm hay giữa cộng đoàn đầy tiếng đông người vang lên chung quanh nhưng không phá vỡ được tĩnh lặng của tâm tư, cho tiếng tâm linh bên trong thêm dịu dàng, trầm ấm.
Đàng Thánh Giá gợi lại trong tôi hình ảnh phiên tòa xử Chúa Giêsu và câu hỏi : “ Sự Thật là gì?” của Philatô, đáp lại chỉ là sự thinh lặng nơi Người. Hôm nay, sau 20 thế kỷ, phiên tòa lừng danh đó vẫn sống động và nguyên nhân của cái chết trên Thánh Giá của Người vẫn được cho là vì tội lỗi chúng ta. Nhưng nếu đặt mình vào bối cảnh lịch sử ngày đó, người ta sẽ nhìn thấy một nguyên nhân ngấm ngầm đã tạo cái chết của Chúa Giêsu: Người rao giảng một điều quá mới lạ so với thời bấy giờ, và điều nầy đã làm giới lãnh đạo tôn giáo thời ấy, thế lực Đền Thờ, lo sợ ảnh hưởng của Người làm họ điêu đứng, mất quyền lực trong dân, dân sẽ lật đổ họ. Ngày nay nhìn lại, nguyên nhân không chỉ là tội lỗi hay lầm lỗi nhưng, như Lời Chúa Giêsu trên Thánh Giá :“ Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23, 34). Chỉ vì họ Không Biết nên Sự Thật ngày xưa đã không có câu trả lời, hay đúng ra chưa có câu trả lời chính xác của Đấng thấu hiểu mọi sự. Và hôm nay, Sự Thật đó đang bắt đầu nhìn thấy trong thế giới chúng ta, khi 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn chưa xây đắp được cho con người một nền móng vững chắc để trường tồn và phát triển, những viễn ảnh thế mạt mà Đức Giêsu tiên báo, đã thành cận ảnh nhìn thấy được, ngày một rõ hơn, thực sự làm người ta bắt đầu lo sợ trước cảnh biển gào sóng thét, hay qua bao nhiêu biến cố gây đổ nát, tang thương.
Lòng Thương Xót Chúa trải qua từ đời nọ đến đời kia ( Maria, Magnificat), 20 thế kỷ trước Mẹ Maria đã nhìn thấy Sự Sống đời đời của nhân loại ngay trong thế giới nầy vì thế, hơn ai hết, Mẹ là người thấu hiểu sứ mệnh lớn lao mà Thiên Chúa kỳ vọng nơi Mẹ: Làm cho nhân loại hiểu biết được, nhìn thấy được như Mẹ về Lòng Xót Thương vô biên của Thiên Chúa trải rộng trên Sự Sống vô cùng của con người, đời nọ qua đời kia, kết nối trong thế giới nầy vào đến vĩnh cửu của Sự Sống muôn đời. Câu chúc tụng của Mẹ Maria là lời xác định cho Sự Sống đời đời không phải chỉ có trên thiên đàng nhưng còn bao gồm cả đời sống nơi trần gian, là Sự Sống lớn lao mà Thiên Chúa đã tạo thành, duy trì và tái tạo không ngừng trong chương trình Tạo Dựng tốt đẹp của Ngài. Điều nầy chắc chắn là nền tảng cho những suy tư đến thành nếp sống nơi Mẹ, đơn sơ mà trọn vẹn trong niềm tín thác vào Lòng Chúa yêu thương ngay trong đời sống nơi trần thế.
Những suy tư đó của Mẹ Maria cũng đã là nền tảng cho những gì Mẹ dạy dỗ trẻ thơ Giêsu suốt thời thơ ấu và niên thiếu của Người sống trong vòng tay trìu mến chở che của Mẹ, để lớn lên ảnh hưởng không nhỏ từ trong tư tưởng Người đến cách rao truyền một Chân Lý mới đặt căn bản trên Con Người, nói theo cách Đông Phương : Người đã chọn Nhân Bản Tâm Linh làm cơ bản cho giáo lý trọng Nhân đầy Tình Người của Người, là một giáo lý quá mới mẻ trong xã hội trọng Thần Quyền từ ngàn xưa như xã hội Do Thái thời bấy giờ và cho mãi đến hôm nay. Chính điều quá mới mẻ nầy đã đem đến cái chết đau thương trên Thánh Giá của Chúa Giêsu, và một Người đồng cảm duy nhứt với Người lúc bấy giờ là Mẹ Maria dưới chân Thập Giá, để Lời trăn trối : “Thưa Bà, nầy là con của Bà!” và “Nầy là Mẹ anh !” không chỉ là Lời trối trăn cảm động của Người Con duy nhứt gởi gắm Mẹ mình cho môn đệ dấu yêu như ruột thịt, nhưng còn là Lời chuyển giao sứ mệnh rao truyền Chân Lý Nhân Bản tâm linh sâu sắc để Cứu Rỗi con người ngay trong đời sống hôm nay, mà Mẹ Maria là người đồng cảm trọn vẹn với Người còn ở lại thế gian và người môn đệ rất yêu mến Thầy nhưng vẫn chưa hiểu rõ Lời Thầy sâu xa vì chỉ mới theo Thầy có 3 năm. Mẹ Maria đã nên Đấng Đồng Công trong sứ mạng Cứu Rỗi nhân loại từ đó, mà mãi đến hôm nay, tôi thấm thía lắm khi trầm lặng gẫm suy trong Đền Thánh Khiết Tâm như ngôi nhà của Mẹ Đồng Công sau 2 tiếng đồng hồ ngồi đây, hòa chung Lời Kinh đơn sơ mà trầm lắng với cộng đoàn.
Đang khi quì gối thinh lặng cầu nguyện sau giờ kinh Mân Côi đọc chung với cộng đoàn, tôi bỗng nghe một tiếng nói nho nhỏ sau lưng: “ Còn chỗ nào cho tôi quì với không?”, quay lại tôi nhìn thấy một bà cụ già đang cố len vào hàng ghế đã kín người để xin một chỗ, tôi ngẫm nghĩ chút rồi đứng lên nói: “ Bác vào đây, quì chỗ của con nè!”, bà cụ thấy vậy, thoái thác: “ Thôi thôi, chỗ của cô đang quì mà!”, tôi vội nắm tay bà cụ kéo vào: “ Không sao đâu bác, bác quì đây đi, con đi ra vì con ở đây cũng lâu rồi.”, bà cụ vui vẻ với nụ cười hom hem thấy thương sao: “ Vậy hả ? Cám ơn cô nghen, cô tốt quá !”, tôi vội đáp: “ Không có gì đâu, đừng cám ơn con”, rồi vội vả bước ra, nhường chỗ cho bà cụ, lòng nghe bình thản mà vui vui, dù biết giờ hội thảo sắp tới cũng có nhiều điều hay cần nghe.
Rời nguyện đường chính của Đền Thánh Khiết Tâm, tôi chen qua hàng người đông đảo đang đổ xô vào, để bước xuống tầng hầm với ý nghĩ vừa lóe trong đầu: “ Mình phải xuống đây để đọc kinh ĐMHCG ” vì chợt nhớ ra tuần cữu nhựt ĐMHCG tôi định bắt đầu ngày hôm qua khi mới vào đây chưa kịp thực hiện. Khi bị lấn mãi vào giữa tấm thảm nhỏ trải dưới đất, đến trước bức ảnh ĐMHCG, quì xuống giữa đám...trẻ con đang quì, ngồi không theo thứ tự nào cả chung quanh, tôi chợt cười thầm và ngước lên nhìn ảnh Mẹ Hằng Cứu Gíup đang nhìn tôi với ánh mắt thiết tha, tôi thì thầm hỏi: “ Có phải Mẹ dẫn con đến trước mặt Mẹ hôm nay đây không?!”, và lục túi xách tìm tập kinh nhỏ thường gọi là sách Đức Bà Hằng Cứu Gíup của mẹ tôi cho từ ngày tôi rước lễ Bao Đồng hơn 50 năm về trước. Sách cũ lắm rồi nhưng là một kỷ niệm vô giá tôi thường mang theo mình luôn, với lời kinh cũng rất cũ mà mỗi lần đọc tới thỉnh thoãng làm tôi phì cười : Đó là linh hồn con bởi chức được làm con Mẹ, thì cũng đặng phép nhờ lòng Mẹ lân ái phù trì ; phận hèn khốn khổ con mà dám chạy đến cùng Mẹ và kêu xin Mẹ xuống ơn lành thì thật là cả gan quá; Mẹ chẳng tìm công mà thưởng chỉ tìm gian nan mà cứu giúp; vì chính Mẹ là Đấng con phải kêu xin và chính Mẹ là Đấng phải nhậm lời con! Đúng là luận điệu của...con nít vòi vĩnh Mẹ vì biết Mẹ thương mình! Tôi chợt nhớ lời khấn nguyện với ĐMHCG của tuần cữu nhựt vừa qua trước đây khi chạy đến cùng Mẹ cầu nguyện và phó thác chuyến đi nầy vào tay Mẹ. Với tâm tình tha thiết cảm động, tôi bắt đầu đọc đoạn kinh cho Ngày Thứ 1 của tuần cữu nhựt nầy, trước ảnh ĐMHCG trong Đền Thánh Khiết Tâm hôm nay.
Tình Mẹ thiết tha vẫn dõi theo những đứa con dưới thế mà ngày xưa Thánh Tử Giêsu đã trối cho Mẹ, tình Từ Mẫu vẫn dạt dào, lo lắng và luôn tìm cách cứu giúp con cái của Bà. Mẹ vui mầng vì các ơn riêng Chúa ban cho Mẹ, chẳng qua là mầng vì nhờ đó Mẹ dễ bề cứu giúp chúng con. Thế giới nầy đã đón nhận rất nhiều thông điệp được Mẹ chuyển đến trần gian cho loài người, những đứa con ngoan hay hư thế nào mặc lòng nhưng dưới mắt Mẹ đều là những đứa con thơ bé, dấu yêu luôn cần Mẹ ấp ủ chở che bồng bế, cứu giúp vượt qua mọi nẻo gian nan. Khi vừa đọc xong kinh tuần cữu nhựt ngày thứ nhứt, tôi nghe phía sau có tiếng gọi: “Có ai xưng tội nữa không ? Có thêm cha giải tội mới đến, xin xếp hàng!”. Dù mới xưng tội vài tuần trước, nhưng khi nghe tiếng mời gọi nầy, tôi bỗng có ý định đi xưng tội. Cúi chào Mẹ mến thương, tôi đứng lên, bước ra ngay phía sau hỏi nhỏ người phụ trách trật tự: “ Muốn xưng tội, xếp hàng ở đâu anh ?”. Người giữ trật tự chỉ: “ Xếp hàng ở đây, mà ô kìa, vừa có tòa trống, chị vào xưng đi !”. Tôi quay lại, vừa thấy một người bước ra, theo lời anh giữ trật tự, tôi bước vào tòa giải tội mà không cần xếp hàng, chờ đợi phút nào cả trong khi chung quanh tôi những tòa giải tội khác đều có người xếp hàng dài chờ đợi. Tôi không hiểu tại sao tôi được ưu tiên nầy, nhưng không để ý tìm hiểu, chỉ lo chú tâm vào xưng tội.
Phép Giải Tội như có lần tôi thưa, là bí tích của Tâm: mỗi lần xét mình xưng tội là mỗi lần người ta có dịp trở về với chính mình để nhận ra lầm lỗi chính mình mà sửa đổi. Xưng tội xong, ra ngoài tôi cứ suy nghĩ hoài về những gì lần lượt xảy ra cho tôi trong buỗi chiều nay, như có một sắp xếp vô cùng kỳ diệu, nếu không do Ơn Mẹ ban thì bởi đâu? Tôi tự hỏi Mẹ Maria muốn nói gì với tôi qua những điều vừa gặp, đối với tôi không phải là tình cờ. Từ 100 năm nay, ai ai cũng nghe nhắc nhiều đến sứ điệp Lộ Đức, Fatima và những sứ điệp khác được cho là từ Mẹ Maria, nội dung các sứ điệp gần giống nhau qua các lời kêu gọi Sám Hối, Hoán Cải, Lần Hạt và Tôn Sùng Mẫu Tâm. Tôi nghĩ, có lẻ người ta vẫn thực hành những điều Mẹ dạy rất nhiều rồi nhưng sao thế giới xem chừng chưa thay đổi, có điều gì chưa đầy đủ, chưa hợp với Mẫu Tâm sao ?
Người Công Giáo đặt nặng về tội, lo xưng tội, tránh tội, lúc nào cũng chú ý tới tội lỗi mà quên một điều khác lớn lao hơn: Lòng Thương Xót của Chúa trải qua từ đời nọ đến đời kia, để nâng dậy người yếu đuối, lầm lỗi mà giúp họ thay đổi, Á Đông gọi là Chuyển Hóa. Chúa không nhốt người ta trong tội để khống chế họ vì Ngài là Đấng giải thoát con người; kẻ dùng tội để trói buột con người trong vòng nô lệ của nó là ma quỉ, nói khác là Kẻ Đối Nghịch cùng Thiên Chúa. Thánh Giá Chúa Kitô là dấu hiệu Ơn Giải Thoát con người khỏi tội lỗi, giáo lý Công Giáo dạy như thế hàng hai ngàn năm nay rồi. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết là ma quỉ và giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. (Dt 2, 14-15). Đức Giêsu, Đấng đã dùng cái chết của mình trên Thánh Giá để cứu con người khỏi ràng buộc của ma quỉ do tội lỗi, thế gian sai lầm về tội lỗi vì họ không tin vào Thầy (Ga 16, 9). Mẹ Maria, Đấng Đồng Công trong chương trình Cứu Chuộc của Chúa Con cũng đau lòng không kém vì con người chưa đồng cảm cùng Mẫu Tâm. Những giọt nước mắt của Mẹ đã đổ ra, cả huyết lệ, vì những Không Biết của loài người về một Thiên Chúa vô cùng xót thương nhân loại đến độ đã ban tặng cho nhân loại Người Con dấu yêu, mà vì Không Biết, họ đã đan tâm giết chết Người thảm thương trên Thập Giá, như giết cả Mẫu Tâm, cũng vì quá yêu thương con người như Thiên Chúa đã yêu thương. Không Biết nên đã không nhận ra Đường lối Sự Sống mà Con yêu dấu của Mẹ đã đem đến cho nhân loại, rao giảng cho nhân loại đến giọt Máu cuối cùng đổ ra trên Thánh Giá.
Nhiều tư tưởng Tin Mừng Công Giáo được diễn dịch trong các sách Kinh Thánh theo cảm quan phương Tây, cũng được chứa đựng Kho tàng Tứ Thư Ngũ Kinh phương Đông.(*). Nhưng vì hai cảm quan khác nhau nên người ta khó nhận thấy. Tây phương quen suy nghĩ theo nhị nguyên, chọn một bỏ một, nên tư tưởng thành một chiều độc khối, nhìn Trời mà quên Đất, chú ý Nên Thánh mà quên Nên Người. Văn hóa cổ truyền VN vẫn thường coi xã hội có bốn hạng người: thánh nhân, hiền nhân, quân tử, mõ làng. Phải bắt đầu là hạng quân tử, biết suy tư và phê phán sáng suốt trong mọi tình huống, vì đấy là điều tối quan trọng (*) cho người học Đạo. Tu dưỡng tâm tính bằng tĩnh lặng là cách thức ưa thích của nhà Nho. Chính Thiên Chúa hay bày tỏ mình cho con người trong cõi lòng tĩnh lặng: "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện. Trí chỉ, nhiên hậu hữu định. Định, nhiên hậu năng tĩnh. Tĩnh, nhiên hậu năng an. An, nhiên hậu năng lự. Lự, nhiên hậu năng đắc." (Con đường học lớn của người làm sáng thêm cái đức sáng suốt, ở gần dân, trụ hẳn vào nơi chí thiện. Đạt được trí, sau đó mới định được. Có định, sau đó mới có thể tĩnh. Có tĩnh, sau đó mới có thể an. Có an, sau đó mới có thể lo nghĩ. Có lo nghĩ, sau đó mới có thể thành tựu)(*). Thành tựu đây là Thành Nhân chứ không phải chỉ chú ý đến Thành Công. Cái học của người Á Đông chú ý để Nên Người gọi là quân tử, vì Nên Thánh đối với họ là điều vô cùng hiếm quý, hàng ức vạn người mấy ai được Nên Thánh? Thời nay, hàng tỉ người Công Giáo bao nhiêu người được như Mẹ Teresa Calcutta, hiếm lắm, quý lắm, đáng để tôn sùng. Đạt được quân tử để sống ở đời đã là khó, Thánh Hiền chỉ để thờ, người quân tử dõi theo bước Thánh Hiền để tầm Đạo. Cảm quan của Á Đông thực tế và phổ quát, khả thi hơn.
Lúc còn đi học, có một câu chuyện vui để kể trong giới sinh viên lưu trú : Ngày đó trong sân trường đại học có rất nhiều hoa, sinh viên hay ăn cắp hoa hồng đem biếu người yêu. Ăn cắp hoa rồi đem hiến cho người tình, chàng hay cô nàng sinh viên si tình nào đó chỉ có tim mà không có óc. Người tình mà nhận của gian thì không phải là ngưòi tính đáng yêu. Con trai nào mà nhận của gian là gã si tính hèn mạt hạng bét, đó là hạng mõ trong xã hội! Sinh viên phải bắt đầu là hạng quân tử, biết suy tư và phê phán sáng suốt trong mọi tình huống, vì đấy là điều tối quan trọng trong giáo dục.(*). Câu chuyện cười chẳng lấy chi là quan trọng, nhưng nhằm nói đến cảm quan có tính lưỡng nghi theo cách nhìn của Á Đông có tim thì cũng phải có óc, tuy hai điều xem ra trái ngược nhau, nhưng trái ngược mà hòa hợp để nên một con người.
Anh em phải khôn ngoan như rắn và hiền lành như bồ câu, là câu mang tính lưỡng nghi, còn gọi là lưỡng hợp tính, nói về hai điều trái ngược nhưng hòa hợp được trong con người, Chúa Giêsu dùng như hình ảnh trái ngược nhưng hòa hợp trong thế giới để phát triển thế giới, Á Đông gọi là sinh sinh trong giòng sinh mạng trường tồn mà Đấng Tạo Hóa, Ông Trời theo Việt Nam, đã tạo dựng và đặt để trong nhân loại. Chúa Giêsu còn dạy nhiều điều hòa hợp khác liên quan trực tiếp với lưỡng hợp tính như một Thiên Chúa Làm Người, dạy con người đường lối Kính Chúa và Yêu Người là điều răn căn bản cho Giáo Lý đầy tính Nhân Bản, trọng Nhân của Người, mà với cảm quan Á Đông dễ nhận ra để đón nhận cách mặc nhiên chứ không phải giục lòng mới tin đặng kiểu Tây phương.
Người có Nhân mới yêu người khác. Người có Lễ mới biết kính lân nhân "Nhân giả ái nhơn, hữu lễ giả kính nhơn" ( Mạnh Tử)(**). Từ ngàn xưa, người Á Đông trọng Nhân, Nhân là giềng mối mọi nhân đức, là nhân tính của con người, thú vật không có lòng Nhân. Đối với Đức Giêsu, Lòng Nhân còn lớn hơn nữa vì Nhân Từ là Đức của Trời, của Thiên Chúa: Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ (Lc 6, 36 )"Chỗ người với thú khác nhau có bao xa đâu nên rất dễ khuất mắt: thường dân bỏ mất vì tâm hồn họ còn để vào lợi vào danh ở bình diện vuông. Chỉ có quân tử mới lo tồn dưỡng, mà tồn dưỡng là phải đổi bình diện đặt trọn tâm nơi Đạo, nên mới nói: quân tử dùng Nhân dùng Lễ mà duy trì Tâm. Người Nhân mới yêu người khác. Người có Lễ mới biết kính lân nhân". "Quân tử dĩ Nhân tồn tâm, dĩ Lễ tồn tâm Nhân giả ái nhơn, hữu lễ giả kính nhơn"(Mạnh Tử) Nếu Đức bởi trời sinh đã đủ mạnh thì tự nhiên trung điểm chú tâm (centre d'intérêt) của con người liền tự di chuyển từ đợt lợi danh đi lên đợt nhân, đợt Đạo: tự lợi hành đi lên an hành.(**). Đạt Đạo đối với người quân tử cũng là Đạt Nhân, nên người quân tử chú Tâm tìm Đạo, lấy Đạo làm phần số của mình. Thánh Kinh nói: "của người để ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đấy"; và "tam niên học bất chí ư cốc nan đắc", những người học ba năm mà không nghĩ tới lộc là khó tìm. Cần phải đặt vào viễn tượng đó mới hiểu được những câu khác tương tự như "quân tử thực vô cầu bão, quân tử ưu Đạo bất ưu bần". Nếu tìm kiếm giàu có là đáng làm thì ta tìm. Nhưng sư thực không phải là thế, nên ta theo chí nguyện của ta tức là theo Đạo, ta để lòng vào Đạo vào Tính để "thành tính tồn tồn"(**), Nhân Tính tồn tại, con người tồn tại.
Mà lòng Nhân Từ thật phải xuất phát từ Tâm Thành, Lòng có đầy miệng mới nói ra (Mt 12, 34), lòng đấy ác tâm, miệng nói nhân từ chỉ là lời gian trá, khôn ngoan như rắn mà lòng không hiền như bồ câu thì gian xảo, trí trá, lọc lừa được họ ngụy biện là khôn ngoan rồi an tâm mà sống với lừa lọc và xảo trá của họ để đoạt lợi cho mình, gọi đấy là khôn ngoan. Vì với đồng loại của mình, con cái đời nầy khôn lanh hơn con cái Sự Sáng (Lc 16, 8), 2000 năm trước Đức Chúa Giêsu đã nhận ra điều đó, mà Người gọi là bất lương, để báo nguy cho con người, mấy ai nhận ra. Người có Tâm chân thật thì nhận ra Khôn Ngoan như Rắn và Hiền Lành như Bồ Câu là sự hòa hợp của lưỡng hợp tính trong cách xử thế để nhận rõ những mưu mẹo của thế gian mà xa lánh để Sống.
Bất Nhân, vô Lễ, con người trở nên độc ác và gian trá, khinh miệt, chà đạp người khác mà vẫn cho là công chính. Thế gian sai lầm về sự công chính vì Thầy đã về cùng Cha, anh em không thấy Thầy nữa ( Ga 17, ). Sự công chính của Thiên Chúa khác với sự công chính của con người, vì sự công chính của Thiên Chúa đặt nơi Thành Tâm, câu chuyện dụ ngôn người Pha-ri-sêu và kẻ thu thuế (Lc 18 9-14 ), Chúa Giêsu kể đã chứng minh điều đó. Lòng Nhân Từ thật không có ở bên ngoài nhưng ở trong Tâm chân thật của con người. Cứu cánh không thể biện minh cho phương tiện, dù người ta nại đến Thiên Chúa hay thiên đàng hay gì gì đi nữa mà chà đạp, khinh miệt, loại trừ người khác chỉ là con đường của ác tâm, không phải từ Thiện Tâm. Những biến cố kinh hoàng đang xảy ra tại Trung Đông cho người ta thấy rõ việc nhân danh Thượng Đế ngày nay, hay nhân danh Thiên Chúa ngày xưa, để xua đuổi, tàn sát và giết chết những con người hôm nay, hay Con Người tên Giêsu 2000 năm trước, là việc làm của Sự Dữ chớ không phải của Thiên Chúa. Họ sẽ khai trừ anh em ra khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ mà kẻ nào giết anh em cũng tưởng là phụng thờ Thiên Chúa. Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ Không Biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy (Ga 16, 2-3). Nhưng vì họ nói rằng họ biết Thiên Chúa mà vẫn còn bước đi trong đường lối hung dữ, gian ác thì cái biết đó đã thật là Biết chưa ?
Ngày xưa Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để rao giảng, dùng cách nói "ý tại ngôn ngoại!" Đấy mới là chỗ rắc rối trêu ngươi. Sao lại cứ "vô ngôn ẩn ngữ"? Thưa, vì Đạo là cái chi rất vi tế kín nhiệm không thể dùng lời nói thẳng ra được. Cần phải cảm nghiệm, thể nghiệm có nên nói hết ra người nghe tưởng là liền hiểu mà kỳ thực chưa liền hiểu tức mới hiểu bằng lý trí mà chưa cảm nghiệm bằng tâm tình và thể nghiệm bằng siêu thức. Vì thế các bậc thầy hay dùng lối nói úp mở để nhử mồi, để thúc đẩy môn đệ lên đường nghĩa là người học Đạo phải đưa vào sự chăm chú trìu mến vì "ai có tai mới hiểu được".(**). Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất.(Lc 8, 18).
Cách đây vài thập niên, người ta chưa quên một scandal có tên là Watergate đã làm cho một tổng thống đương kim của Hiệp Chủng Quốc phải từ nhiệm. Tổng Thống Richard Nixon đã phải rời khỏi chức vụ cao nhất nước Mỹ vì bị cáo buộc đặt máy nghe lén điện thoại của đối phương trong kỳ bầu cử. Nghe lén điện thoại bị coi như là sự gian lận, không được chấp nhận trong quốc gia văn minh bật nhất hoàn cầu. Rồi xảy ra những vụ rò rỉ tai tiếng quan trọng khác ngay tại Tòa Thánh, nơi được nhìn như biểu tượng tối cao của sự thánh thiện trên thế giới ngày nay. Ngày nay, người ta nói nhiều đến những hackers đột nhập vào các máy vi tính cá nhân, phá rối và phá hại các vùng thuộc phạm vi cá nhân cần phải được tôn trọng, đối với thế giới văn minh tân tiến ngày nay là một tội phạm không thể chấp nhận. Nghe lén điện thoại, đánh cắp tài liệu mật, hack vào các máy vi tính cá nhân, thế giới văn minh không bao giờ chấp nhận là việc chính đáng, nhưng bị lên án là một vi phạm trầm trọng đến quyền con người. Nhìn với khía cạnh nhân bản, những việc làm lén lút trên là một việc chẳng những bất nhân mà còn vô lễ, thiếu công bằng và không thành thật, mất nhân tính chẳng đáng được gọi là việc chính đáng của con người. Những việc làm đó được gọi là gì nếu không là vô nhân đạo, không có lòng Nhân.
Những việc vô nhân đạo ngày nay nhan nhãn khắp nơi, từ những việc sản xuất các thực phẩm bị nhiễm độc, đến các việc dùng và thải các phế phẩm kỹ nghệ độc hại cách bừa bãi, làm hại đến sức khỏe dân chúng, thậm chí làm thiệt mạng người khác. Cho phép và hợp pháp hóa việc phá thai, trợ tử – người ta có nhìn thấy điều gì không đàng sau những việc làm đó ? Đến các tai hại tinh thần tiềm ẩn dưới dạng tự do cạnh tranh trong thương trường, chính trường; các việc khai thác tính dục dâm ô ẩn núp dưới hình thức văn hóa, nghệ thuật, phim ảnh, sách vỡ, báo chí. Các vụ buôn bán vũ khí, các vụ buôn người, các vụ đàn áp, bóc lột, lạm dụng, bạo hành và thủ tiêu con người với muôn vạn thủ đoạn thiên hình vạn trạng của thế gian, để hủy diệt trực tiếp hay gián tiếp đến chính con người. Rồi đến nguy cơ thay đổi khí hậu, mà nguyên nhân là gì ai cũng bắt đầu nhận rõ, gây nên bão tố, lụt lội, cuồng phong, các trận động đất, nói chung là thiên tai đang đe dọa sự tồn tại của Trái Đất và tất cả các sinh mạng của người và vật sống trên trái đất. Những điều đó xảy ra chỉ vì lợi lộc vật chất, quyền lực và danh vọng đã được trọng vọng, đặt trên đầu trên cổ con người. Con người đã bị xóa bỏ dưới những tham vọng và quyền lợi của thế gian. Thế gian sai lầm về việc xét xử, vì tên thủ lãnh thế gian đã bị xét xử rồi (Ga 16, 11), vì người ta đã coi trọng những điều Thiên Chúa ghê tởm (Lc 16, 15), lòng Nhân đã không còn !
Chúa Giêsu còn nói thêm: “ Vậy, khi anh em thấy đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ Daniel đã nói tới – người đọc hãy lo mà hiểu – thì bấy giờ ...( Mt 24, 18). Thì bấy giờ đại loạn, thời đại cực kỳ hỗn loạn sẽ xảy ra cho nhân loại, bắt đầu tại Trung Đông! Ngữ cảnh được chính Chúa Giêsu cảnh báo còn ghi chép rành rành trong Kinh Thánh, người đọc hãy lo mà hiểu, được thấy và hiểu như thế nào trong thế giới hôm nay ?
Bấy lâu nay thế giới Tây phương đã quen nhìn theo chiều hướng ngoại thực nghiệm của khoa học, kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật đã đem lại thành công rất to lớn cho con người ngày nay, cung cấp mọi tiện nghi và sự giàu sang cần thiết để sống. Từ từ, người ta quen với cách sống vật chất, chuộng bề ngoài và coi bề ngoài, bề thế mới là thế lực đáng tôn trọng. Thánh Phaolô đã cảnh báo: Anh hãy biết những điều nầy: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nỗi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. ( 2Tm 3, 1-5). Đạo Chúa Giêsu đặt căn bản trên hai điều: Kính Chúa và Yêu Người, bằng nhau không hơn, không kém; thì cái chính yếu là gì nếu không là điều cốt lõi tinh thần bên trong trong Đạo Thánh Chúa Kitô là Lòng Xót Thương của Thiên Chúa và lòng Nhân nơi con người. Mất một trong hai điều căn bản nầy, không phải chỉ có một Kính Chúa không hay Yêu Người không, con người sẽ lạc xa Đường lối của Chúa Giêsu Kitô đã đặt ra cho Đạo Thánh của Người.
Người ta không ngạc nhiên khi ngày nay con người lý luận đủ thứ nhưng toàn là chuyện đâu đâu bên ngoài, chẳng bao giờ dính dấp chi tới họ chứ đừng nói là chính tâm hồn chân thực, chân tâm, chân như bên trong của họ. Con đường tìm về Tâm chính để đạt lòng Nhân nơi con người hoàn toàn bị chối bỏ, bị lãng quên, trách chi những điều con người coi trọng, là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa, xuất hiện. Và khi Điều Ghê Tởm Khốc Hại ấy len lỏi vào tận nơi thánh, nơi nó không xứng đáng được đứng, thì người đọc hãy lo mà hiểu.
Nhĩ mục chi quan bất tư Tai mắt và lý trí là những cơ năng có cùng không sao đạt được cái vô cùng. Dùng những sản phẩm trực thị của chúng (données immédiates sensorielles) là việc của lưu tục, của chân lý thế gian… Nhị nguyên không thấy được Chân lý căn bổn, hay nói đúng hơn nhận lầm một trong hai cực làm chân lý căn bổn thì đó là chân lý giả tạo. Chân lý nền móng giả tạo này có đặc tính là chống đối nhau như thị phi, bỉ thử, có không…con người bị dẫn đi vòng ngoài như thế quên mất đường trở lại "nhà" tức là Nhân tính, nên quen dùng tiếng "vong thân" mà chỉ thị. Do đấy phương pháp suy tư cũng chỉ có một chiều là lý trí phân tích, thiếu chiều tâm linh tổng hợp vì để đạt tổng hợp thì cần có Tâm. (**)
Văn minh hiện nay là cái văn minh "lắm mồm" của civilisation bavarde de bla, bla, bla… con người bị ngập lụt trong lời nói sách vở, báo chương, nhưng con người vẫn thấy đói Lời.
Loài người đâu chỉ có sống vì cơm bánh, nhưng còn sống vì lời Thiên khải. Nơi triết lý phải hiểu Thiên khải là Tâm khải, khác hẳn với những lời phát xuất từ lý trí, cảm xúc, dục tình, cái đó tràn lan ngập lụt, còn lời Thiên khải từng trăm năm đã vị tất được nghe.
Lời của Đấng biết hết mọi sự, thấu suốt mọi điều. Lời của "Tri viễn chi cận. Tri phong chi tự. Tri vi chi hiển (Trung Dung) "Biết cái gần của cái căn cơ xa thẳm. Biết chỗ ngọn nguồn do lai của luồng gió. Biết được chỗ tế vi của những cái đã hiển hiện ra trước mắt". Biết thế mới nói lên Lời sáng soi sống động gây nên một nếp sống mới. Đó là cái biết tế vi ngọn nguồn, chứ không là cái biết gần gũi của cái gió đã tạt vào mặt, thổi ù hai tai. (**)
Vậy thì tai đây phải hiểu là Tâm tai, hay "nhĩ nhuận" tức là "nhĩ nhập tâm" mới có thể "thính ư vô thanh". Tai đó mới nghe lọt những điều "duy tinh duy nhất" vượt khả năng tai mắt thường, và môn Đạo cần khởi đầu tự chỗ tế vi đó. Nếu không sẽ lạc xa nhà rồi nỏ mồm kêu: "nhà xa quá ta", thất thị viễn nhi! Nhưng thực ra có xa chi đâu. "Phù! Hà viễn chi hữu". Không xa nhưng phải biết đường "nhập ư thất". (**) chỉ vào được bằng lối của Tâm Linh, con đường hẹp và chật (bên trong tâm hồn) thì đưa đến Sự Sống, nhưng ít người tìm được lối ấy. ( Mt 7, 14).
Con đường Tâm Linh của Đông phương đâu đi ngược lại với Đạo Chúa Kitô, đâu khác gì giáo lý Chúa Kitô nhưng vì chưa phù hợp theo cảm quan Tây phương nên chưa được Tây phương đón nhận đó thôi. Chưa được đón nhận vì người theo cảm quan Tây phương quen với lối suy luận thuần lý nhị nguyên chọn một bỏ một, lúc nào cũng tao đúng mầy sai, mà không nhìn thấy những nguy cơ khủng khiếp của cách nhìn nhị nguyên hữu vi đó mang lại: Lý thuyết chủng tộc thượng đẳng sinh ra chế độ kỳ thị chủng tộc, chế độ cộng sản biến con người thành bộ máy vô hồn chỉ biết sản xuất, chủ nghĩa duy vật Tây phương đang đưa nhân loại về đâu, ai ai cũng thấy rồi.
Đông phương đặt nặng chữ Nhân của Nhân Tính, Lòng Nhân, nên không chủ trương loại bỏ nhưng hòa hợp: Hòa hợp Trời với Đất nơi Con Người; hòa hợp tròn với vuông, cho vuông tròn viên mãn. Ngày nay thế giới chia rẽ, loại trừ nhau không thương tiếc chỉ vì Không Biết hòa hợp, Không Hiểu lòng Nhân, quên mất Con Người.
Tôi bước vào tòa giải tội xưng thú tội mình: “ Thưa cha, trong thời gian nầy con nhận thấy con vẫn còn giận ghét một vài người, mặc dù con không nói với ai một tiếng nào; nhưng con biết giận ghét đó vẫn còn trong trái tim con!”. Lời tự thú không phải chỉ những điều hời hợt bên ngoài, nhưng tôi tìm thấy tận thẳm sâu tâm hồn tôi, trong tận trái tim, tận đáy lòng tôi, đó mới là điều cần thiết phải để ý, quan tâm. Điều tôi lắng nghe được từ cha giải tội, ngài lặp lại mấy lần chữ Hòa Giải, cần để tôi gẫm suy.
Bí tích Giải Tội đối với chúng tôi, những người làm Linh Thao, thường gọi là bí tích Hòa Giải: Hòa giải với chính mình, Hòa Giải với Thiên Chúa, từ đó đi đến Hòa Giải lớn hơn với thế giới chung quanh, giữa người với người. Nhân đạo mang đến Tha Thứ, Humanity brings Forgiveness (Mother Teresa Calcutta), Nhân Từ mang đến Hòa Giải và Bình An. An Hòa chỉ tìm được ở lòng Nhân vì chỉ có nơi lòng Xót Thương, lòng Nhân, con người được gặp gỡ Thiên Chúa, được nên một với Ngài. Tha thứ chưa có vì Nhân Đạo chưa thực sự có trong thế giới, An Hòa chưa đạt vì Nhân Từ chưa đạt trong Tâm con người.
Trong thời gian nầy, người ta nói nhiều về lòng đạo đức bình dân tôn sùng Hai Trái Tim, Trái tim Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiểm Nguyên Tội Mẹ Maria, trái tim Lòng Thương Xót của Thiên Chúa và Trái Tim đầy Từ Tâm của Thánh Mẫu Maria. Ôi hình ảnh quá đẹp, đơn sơ như lòng Đạo của người bình dân nhỏ bé, nhưng không kém chiều sâu thẳm cho người thích trầm lặng suy tư.
Trái tim được người ta coi là biểu tượng của Yêu Thương, là nơi hội tụ của tình yêu. Theo cảm quan Tây phương, Tim cũng được hiểu là Tâm, là thế giới bên trong con người. Theo cảm quan Á Đông, thì trở về Tâm là để tìm ra Tình Người, lòng Nhân chân thật, cao quí, là sức sống của con người. Hãy trở về thâm tâm để Thành (**) Thành tín, Thành tính, Thành Nhân. Hãy trở về với nội tâm chính mình, chẳng ai vào được nội tâm của người khác trừ Thiên Chúa. Nếu không chọn lối hướng Tâm, thì như người Pha-ri-sêu, chỉ nhìn bề ngoài mà xét đoán, tội là của người khác kìa, không phải tôi, nên sửa đổi là người khác chứ đâu phải tôi. Kiểu lý luận theo bề ngoài quên chiều sâu thẳm nội tâm là Tình Thương chân thật, là lòng Nhân bên trong, là trọng tâm của sứ điệp từ Hai Trái Tim mới là điều cần quan tâm để con người biết sửa đổi, hoán cải. Hãy Tôn Sùng Mẫu Tâm là điều Mẹ Maria kêu mời nhân loại từ gần 100 năm nay, để người ta hiểu chiều sâu phải được nhìn biết, được tôn trọng nơi Lòng Nhân của con người, cũng như người ta đã tôn sùng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
" Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân." (người quân tử lấy văn chương mà họp bạn, lấy bạn mà giúp nhau giữ Lòng Nhân)( Tăng Tử)(*). Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo, đem Đại Nghĩa để thắng hung tàn.(Nguyễn Trải). Không có Tình Thương nào cao cả hơn Tình Thương của Người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15, 13). Ta chuộng Nhân Nghĩa chứ không phải là lễ tế (Mt 9, 12). Lòng Nhân đã nên Đại Nghĩa mà người xưa dùng đến để thắng cường bạo, và Chúa Giêsu đã dùng để thắng tên thủ lãnh dối trá độc ác của thế gian mà Cứu nhân loại. Tình Thương, Lòng Nhân, là con Đường Cứu Độ của Thiên Chúa nơi nhân loại, được Chúa Giêsu làm sáng tỏ bằng Lời rao giảng, cuộc sống và cả bản thân Người trên Thánh Giá, tôi suy đi nghĩ lại trong những ngày tựu hợp nơi đây như những người bạn, người con trong tình Huynh Đệ, Bằng Hữu chung quanh Từ Mẫu Maria, để cùng với Mẹ chúc tụng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, trải qua từ đời nọ đến đời kia, đến hôm nay và mãi về sau. Lòng Nhân Từ đã nên Ơn Cứu Độ cho con người.
Tôi lắng nghe trong những bài giảng của các Thánh Lễ đại trào Ngày Thánh Mẫu năm nay: Chúng ta đừng bao giờ quên ý nghĩa sâu xa của phép lạ Thánh Thể. Đó là chính Thiên Chúa đến với tâm hồn đói là của chúng ta để làm cho chúng ta được thoả mãn cách tràn trề bằng tình yêu và lòng thương xót Ngài.(Đức Cha Carl Kemme). Đừng sợ làm chứng nhân cho Thiên Chúa (ĐGM James Johnston) Chúng ta không thuộc về Giáo Hội khải hoàn, cũng không thuộc về Giáo Hội Thanh Luyện; chúng ta thuộc Giáo Hội Chiến đấu, chiến đấu cho Đức Tin. Chung ta la nhung nguoi di hanh huong ve quê trời. Chúng ta không được bất cẩn và đầu hàng. (ĐGM Edward Rice).
Lòng Nhân, của Thiên Chúa và của con người, không phải chỉ nói bằng lời suông nhưng từ ngàn xưa Lòng Nhân đã được viết bằng những giọt Máu hữu hình của Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa, trên Thánh Giá; bằng những giọt Máu vô hình trong Mẫu Tâm Maria dưới chân Thập Giá; và bằng Máu của tất cả ai đã chết vì bạo lực, do đàn áp, bị xua đuổi, loại trừ, để làm sáng tỏ điều vô cùng cần thiết là Lòng Nhân trong thế giới khắp nơi xưa và nay. Lòng Nhân trở nên rất thực trong đời sống nhân loại, được các chứng nhân nói lên bằng chính sinh mạng, đời sống của họ.
Kinh Thánh đã có những chứng nhân cho Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, nổi tiếng nhứt là Maria Magdala, chứng nhân được gọi tên, làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Cũng có những chứng nhân không tên, chỉ được gọi với biểu tượng Cây Dầu và Cây Đèn (Kh 11, 4), cho tôi một liên tưởng đến hình ảnh Cây Lau bị dập, Ngọn Đèn leo lét mà ngôn sứ Isaia nhắc tới, nói về chứng nhân Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa. Chúng ta đang sống trong thời đại của cuộc chiến đấu quyết liệt với Sự Dữ, không được bất cẩn và đầu hàng trước Sự Dữ vô cùng quỉ quyệt, xảo trá và ác độc trong thế giới hôm nay, nhưng phải hết sức làm cho thế giới nhìn biết được Lòng Nhân trong thẳm sâu tâm hồn, hiện hữu và giá trị vô biên, vì Lòng Nhân đó được Thiên Chúa dùng để Cứu Chuộc con người, trở nên Con Đường Giải Thoát nhân loại trong thế giới hôm nay và mãi về sau. Những hình ảnh Khải Huyền, đối với tôi, không phải là những điều không tưởng, bày vẽ như huyền thoại, hay như các chuyện cổ tích để giải trí; nhưng là những hình ảnh rất sống động, nhìn thấy được ngay hôm nay, thế giới cần phải đọc, phải học từ đó như một phương cách biện phân Sự Dữ và Sự Lành, cuộc chiến đấu cam go có tính cách Cánh Chung, Ơn Cứu Độ và Trời Mới Đất Mới. Nơi đó, hình ảnh Người dũng sĩ Trung Thành và Chân Thật với cuộc chiến quyết liệt, dọn đường cho Con Chiên, Đấng Cứu Độ lại đến; có cả Con Rắn Xưa với tên gọi là con số bí ẩn, và Con Thú được ban cho cái mồm huyênh hoang đi khắp nơi để lường gạt và giết hại những ai chống lại nó, trong một hạn kỳ; Đức Mẫu Nghi và cuộc chống lại Con Rồng hung ác, sắt máu; tất cả hướng về Ơn Cứu Độ đem Sự Sống mới cho con người, ngay tại trần gian. Một Giê-ru-sa-lem mới từ trời đến trên thế giới và Thiên-Chúa-ở-cùng nhân loại với hình ảnh kết thúc là cuộc lương duyên thần linh giữa Thần Khí và Tân Nương, tượng trưng cho con người, một kết hợp Tâm Linh toàn vẹn giữa Thần Linh Thiên Chúa và Con Người trong thẳm sâu Tâm Hồn, theo cảm quan Tây phương thì nhìn như một hôn nhân, nhưng người Á Đông đã rõ hình ảnh hướng Tâm của kết hợp Tâm và Linh đúng nghĩa, mang đến vẻ đẹp viên mãn của niềm hy vọng như hoài bão lớn lao nhứt phải đạt cho con người để tạo An Hòa, đạt chí nguyện: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.( Gl 2, 20).
Lạy Chúa, Ngài ở bên trong con, là vẻ đẹp cổ kính mà mới mẻ từng ngày, làm con say mến. Ôi con yêu Chúa quá muộn màng, đã quá muộn màng (Thánh Augustin).
Ba ngày ở đây, mỗi ngày mang đến cho tôi niềm vui thâm trầm từ những dấu chỉ nho nhỏ, tôi nhận được như những ơn huệ quan phòng kỳ diệu, chắc chắn không do sắp xếp của con người, nhưng là Ơn Ban của Mẹ Maria, tôi gọi vậy, vì tôi đang ở trong vòng tay trìu mến của Thánh Mẫu ngày đại hội. Những dấu chỉ, như Thánh Gioan đã viết, nếu viết lại từng điều một sẽ rất nhiều như pho sách, tôi giữ trong lòng, làm hành trang cho hành trình Đức Tin thêm phong phú.
Cao điểm của đại hội là cuộc rước kiệu long trọng tung hô Mẹ Maria, Nữ Vương Nước Việt Nam, và Thánh Lễ đại trào bế mạc. Tôi không dự cuộc rước vì chân bị sưng, có lẻ vì mấy ngày nầy đi bộ nhiều quá, ngồi thinh lặng lắng nghe những bài thánh ca nhịp nhàng thay cho lời cầu nguyện, làm nô nức lòng người. Tôi cảm thấy mình diễm phúc vì có Mẹ, được Mẹ dõi theo chăm sóc với tình Từ Mẫu thiết ái, chở che. Tôi ước ao mỗi người nhìn biết và tôn sùng Mẫu Tâm với tất cả ý nghĩa thâm trầm vì chúng ta, nhân loại, có một Người Mẹ rất yêu mến chúng ta, luôn mong muốn che chở chúng ta trong đời sống đầy gian nan, nguy khốn do Kẻ Đối Nghịch Cùng Thiên Chúa gây ra cho con người vì lòng ghen ghét cực độ của hắn đối với con người, muốn tiêu diệt nhân loại. Với Mẹ, tôi nhẹ gánh lo âu trong cuộc chiến vô hình mà rất thật hằng ngày do Kẻ Thù gây ra. Không nhìn biết sự hiện hữu của ma quỉ, người ta không thắng được ma quỉ, chính vì ý thức điều nầy, nên lời kêu xin Mẹ qua kinh Mân Côi không thể thiếu trong mỗi ngày sống của tôi.
Có người hỏi tôi: " Chị thấy gì không?", tôi hỏi: " Thấy gì ?", thì được trả lời: Mây ngũ sắc xuất hiện trên trời lúc rước kiệu ! Tôi nén lòng để không phải bật cười, chỉ nhẹ nhàng giải thích: Có gì đâu, sau những cơn mưa to thì thường có mây ngủ sắc trên trời mà ! Cơn mưa dai dẳng từ tối hôm qua đến thành tầm tả cả buỗi sáng kéo dài đến quá trưa nầy, cho khí hậu nóng bức của hai ngày trước dịu xuống rất nhanh. Nỗi lo âu, chiều nay tụi mình chắc phải đi kiệu và xem lễ dưới mưa rồi, khi ngước nhìn bầu trời vần vũ xám xịt sáng nay giăng mắc khắp nơi, đã không xảy ra. Trước giờ rước kiệu trời đã tạnh ráo, và khi đoàn rước bắt đầu thì nắng lại lên, rực rỡ với bầu trời mỗi lúc một trong xanh, dịu mát, nắng vàng trải khắp lối cho buổi chiều thật đẹp, thật trong lành, dịu êm như tiếng đàn, tiếng hát cất cao. Đối với tôi, đấy là ơn huệ Chúa ban như muôn vàn Ơn Huệ khác Chúa ban trong đời sống nầy nhờ lời cầu bàu của Mẹ Maria. Người ta thích tìm dấu lạ, rồi cứ quanh quẩn ở những "dấu lạ" mà trầm trồ, quên những điều trọng đại, cần thiết hơn.
Ngày xưa, Chúa Giêsu cũng đã làm những phép lạ cả thể, nhưng ngay sau đó Người ngăn cấm người ta loan truyền về những phép lạ nầy. Mục đích Chúa tới trần gian không phải để làm phép lạ cho người ta tung hô mình, nhưng vì lòng thương xót dành cho con người quá lớn, Người không đành ngoảnh mặt làm ngơ mà không cứu con người trước những đau khổ nhìn thấy được của họ. Nhưng Chúa Giêsu muốn đem đến cho nhân loại điều to lớn hơn, trọng đại hơn là loan truyền cho nhân loại Con Đường Sự Sống để nhờ theo đó mà loài người được Sống. Chính Người là mẫu gương sống những gì Người rao giảng, hơn thế nữa, Người tỏ quyền năng vô cùng của Thiên Chúa là làm sáng tỏ phúc Phục Sinh, cứu con người từ trong cõi chết, được Sống Lại để tiến vào Sự Sống dồi dào từ đời nọ tới đời kia. Sự Sống của Thiên Chúa là vô biên, vì Ngài là Đấng vô biên, mà vì một lầm lẫn thiếu sót, người ta chỉ đóng khung Sự Sống vĩnh cửu nơi thiên đàng mà thôi, mà quên cuộc Sống tốt đẹp cho con người ngay tại trần gian, Chúa đã tạo dựng. Từ Mẫu Maria cũng một lòng với Thiên Chúa, vì quá yêu thương con cái trần gian của Mẹ, Mẹ đã nhiều lần đến với họ, cứu giúp họ, nhưng xin đừng đóng khung tấm lòng Từ Mẫu trong những giới hạn hẹp hòi mà quên đi Mẫu Tâm của lòng Nhân, Mẹ muốn bày tỏ cho con người, mong muốn loài người noi theo và sống với như Lời khuyên của Thánh Tử Giêsu: " Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13, 34). Chỉ có Tình Thương lớn lao, lòng Nhân Ái đậm sâu cho Nhân Đạo phát triển dồi dào khắp nơi, mới đủ sức hàn gắn những vết thương quá sâu nơi nhân loại, vì lầm lỗi, loài người đã tạo cho nhau, để tiêu diệt nhau như những gì người ta đang nhìn thấy trong thế giới hôm nay. Con người hiện nay đã "thành công" rất lớn, nhưng "thành nhân" rất nhỏ. Con người chưa được sửa soạn đủ để hưởng cái thành công của mình. Thay vì lấy thành công tô thắm cuộc đời thì lại dùng để tiêu diệt lẫn nhau. Vì chưa tìm ra cái toàn thể làm gốc để quy tụ các động tác tư riêng nên mọi chương trình trở thành vá víu.(**)
Điều đáng buồn là có người lợi dụng tính nhẹ dạ của một số người, cứ phao truyền những điều hời hợt với mục đích làm tôn giáo trở thành như thứ vu vơ vu nghiễn của bọn hương nguyện, suốt ngày bái bái, lạy lạy, mà không nhìn thấy chiều sâu của Đạo là Con Đường Giải Thoát con người. Hiện nay người ta thành công rất lớn nhưng thành nhân rất nhỏ, lại dùng những thành công đó để tiêu diệt lẫn nhau, thì thử hỏi những thành công mà người ta tìm kiếm đó, sẽ đưa nhân loại về đâu ? Bấy lâu, người ta chạy theo thành công bên ngoài mà không tìm con đường nội tâm sâu thẳm bên trong để tìm lại Nhân Tính mà Thành Nhân, nên nhân loại ngày nay đang rối loạn vì mất quân bình mà thành hỗn loạn mỗi ngày một hơn, bắn giết, dành giựt cấu xé nhau khác gì loài thú ác độc, nhưng vẫn chưa nhận ra, sai lầm đáng sợ là đấy.
Chị tôi nhỏ hơn tôi khoảng chục tuổi, nhưng dáng người nhỏ nhắn trẻ trung, trông chị như cô nữ sinh vừa xong trung học. Không ai biết, với học vị tiến sĩ, chị đang giữ một chức vụ cao trong một cơ quan chính phủ Hoa Kỳ. Có những người bạn của tôi gặp chị lần đầu ở đây, kêu chị là “ cưng” hay “cô bé” vì tưởng chị là cháu gái của tôi, chị chỉ mỉm cười không cải chính. Tánh chị ít nói cũng như tôi nên ba ngày đi hành hương với nhau mà chẳng có giờ tán ngẫu, hai chị em ở cạnh nhau nhưng thường lặng lẻ, mỗi người theo đuổi một ý tưởng riêng. Một lần, chị nói tôi nghe: “Em đâu có học giỏi hơn bạn bè em đâu chị, nhưng không biết sao cứ thi là đậu, mà đậu cao nữa, chắc nhờ em hay cầu nguyện! Em thích cầu nguyện!” Và chị bày tỏ: “Em ước ao đem hiểu biết của mình mà giúp dân mình nâng cao trình độ, nhứt là giới trẻ Việt Nam, để giúp họ biết ý thức hơn về trách nhiệm, về những việc làm làm sao cho người mình, đất nước mình khá hơn. Dân mình thông minh đâu kém ai, chỉ vì chưa hiểu đúng, chưa ý thức đúng đó thôi.”. Hoài bão của chị tôi, cũng có thể, là hoài bão của nhiều người, những người nhận mình là Kẻ Sĩ hữu trách trước quốc gia hưng vong, tìm sức mạnh tinh thần bên trong để ý chí phấn đấu không phai nhạt, không được bất cẩn và đầu hàng.
Chiều nay ngồi đây, lòng bồi hồi rộn rã với tiếng hát, với những hồi chiên trống nặng tình quê hương dân tộc, tôi ngước mắt lên cao, lên cao mãi dõi theo hai lá cờ tung bay trên nền trời xanh thẳm được thả bay cao với những bong bóng đủ màu, mừng đoàn kiệu đưa tượng Mẹ Maria về lại lễ đài. Nhìn màu cờ Đức Mẹ và cờ Tổ Quốc bay cao bên nhau mà ứa lệ: Mẹ ơi, xin Mẹ nhìn xuống đoàn con Việt Nam đang hợp nhau đây, cũng như những người Việt rải rác khắp nơi hay tại quê nhà xa thẳm. Với lòng Từ Mẫu, xin Mẫu Tâm luôn ấp ủ, dìu dắt và chở che đoàn con Việt vẫn còn khốn khó gian nan. Xin cho quê hương chúng con không bị mất tên và đoàn con Việt một lòng, một ý gìn giữ và phát triển luôn mãi phần Đất Nước tổ tiên chúng con khổ công gầy dựng, cho con cháu chúng con không hổ danh làm Người Việt, nhưng luôn biết làm rạng rỡ giống nòi nhờ Ơn Chúa và Mẹ luôn nhìn đến và Cứu Độ chúng con.
Nam Hoa
Chú thích (*) Hòa Giang Đỗ Hữu Nghiêm, Viện Đại Học Dalat Trong Lòng Dân Tộc ( 1958-1975)
(**) Kim Định, Tâm Tư