Nhảy đến nội dung

Triết lý ông tôi của một vị Giám Mục đáng kính

TRIẾT LÝ ÔNG TÔI CỦA MỘT VỊ GIÁM MỤC ĐÁNG KÍNH

Trần Mỹ Duyệt

Vào một buổi chiều cách đây khoảng 15 năm, Đức Cha Chu Văn Minh cùng với cha phụ tá Brunô Phạm Bá Quế thuộc Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội đã đến thăm gia đình chúng tôi. Những câu chuyện tình yêu sét đánh tưởng chỉ có trong tiểu thuyết tình, nhưng buổi gặp gỡ hôm đó đã khiến ngài và tôi trở nên thân thiết, quý mến và có cảm tình với nhau ngay từ giây phút đầu. Đối với tôi, ngài rất đáng kính và dễ mến. Còn đối với ngài, tôi là một người trí thức và có nền tảng đạo đức khiến ngài rất ấn tượng về tôi. Điều này, sau khi cả hai đã trở thành thân thiết ngài mới nói cho tôi hay. Tóm lại, ngài đã dành cho tôi những cảm tình đặc biệt. Phần tôi, tôi cũng rất quý mến ngài. 

Tình cảm giữa tôi và ngài bắt đầu phát triển từ buổi gặp gỡ đó. Trong cách sống và xưng hô, trước mặt người khác, ngài gọi tôi là tiến sỹ, vợ tôi ngài gọi là phu nhân. Nhưng trong chỗ thân mật giữa hai người hoặc bạn bè thân thiết, ngài vẫn xưng hô với chúng tôi bằng hai từ “ông và tôi”. Điểm đặc biệt là không có gì là cao trọng, không có gì là thấp hèn. Không mang màu sắc một giám mục, một giám đốc đại chủng viện với những tín hữu, giáo dân hoặc con chiên. Đại từ ông, tôi ở đây mang đượm một triết lý sống bình dân, hài hòa, và cởi mở. Trong tất cả những lần ghé California khi đi công tác cho Đại Chủng Viện cùng với cha phụ tá Phạm Bá Quế, và trong các buổi họp mặt, ngài vẫn luôn luôn bằng một giọng điệu bình dân ấy khi xưng hô với tôi cũng như các anh chị em.

Nhắc đến ngài, một kỷ niệm tưởng không bao giờ quên và có lẽ mãi mãi sẽ còn âm hưởng trong lòng anh chị em Nhóm Rau Muống. Tại sao lại là rau muống? Và tại sao ngài lại dành nhiều cảm tình với anh chị em nhóm này? Câu chuyện bắt đầu như sau:

Trong thánh lễ tại cộng đoàn giáo xứ Thánh Linh, Fountain Valley, California chiều hôm đó, trong phần chia sẻ lời Chúa, và với mục đích kêu gọi sự đóng góp của giáo dân cho việc xây dựng và phát triển Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội, ngài đã dí dỏm, khéo léo lồng vào một câu chuyện. Đại khái là có một đại gia kia rất giầu có. Nhưng ông lại keo kiệt, hẹp hòi và bủn xỉn. Ông không bao giờ giúp đỡ bất cứ ai, đặc biệt là vấn đề tiền bạc. Nhưng rồi một hôm ông cũng phải miễn cưỡng dừng lại trước một bà nghèo khó đang bán rau muống kiếm sống. Nhìn thấy sự nghèo nàn, rách rưới của bà thay vì ném cho bà mấy đồng lẻ, ông đã mua hộ bà bó rau muống cuối cùng mang về cho con rùa nó ăn.

Sau đó chẳng bao lâu, ông nhà giầu lâm trọng bệnh và chết. Trước tòa phán xét, Thánh Phêrô lục kiếm mãi trong sổ công phúc của ông khi còn sống mà không thấy được gì. Sau cùng thì ngài cũng tìm được một điểm trong số những cái có thể gọi là việc lành phúc đức của ông. Thánh Phêrô đã trình lên Chúa Giêsu, và Chúa đã bảo Thánh Phêrô cho thiên thần nối lại những cọng rau muống của bó rau muống hôm đó để ông bám vào mà leo lên Thiên Đàng…

Ngài không đưa ra một kết luận nào, một lời khuyên nào về câu chuyện, nhưng để mọi người hôm đó suy nghĩ. Tôi không biết sau thánh lễ hôm đó, ngài thu được bao nhiêu bó rau muống đem về cho đại chủng viện. Nhưng đối với tôi, câu chuyện ấy để lại một ấn tượng rất rõ ràng. Nó làm động lực cho tôi kêu gọi một số anh chị em quen biết để cùng nhau họp thành NHÓM RAU MUỐNG. Chúng tôi đã rất vui mừng, cảm thấy hạnh phúc mỗi lần qua Mỹ, ngài luôn luôn dành thời giờ cho nhóm. Dâng lễ, chia sẻ tin mừng cũng như sinh hoạt của đại chủng viện, và dĩ nhiên là “hái rau muống” với nhau. Sau này khi ngài về hưu, chúng tôi vẫn giữ liên lạc này với cha Phạm Bá Quế, nhưng mới đây được biết cha đã thôi chức Giám Đốc Đại Chủng Viện và đi coi xứ.  

Triết lý “ông tôi” của ngài được áp dụng một cách thân mật, hòa đồng và vui vẻ khiến mọi người đều quý mến ngài. Theo bình thường những người trong hàng tư tế như các linh mục khi xưng hô với giáo dân thì dùng từ “cha con”. Giáo dân khi đứng trước một linh mục dù là rất trẻ cũng tỏ ra khúm núm thưa cha và xưng con. Nói chi đến một vị giám mục, đặc biệt, giám mục ấy còn là giám đốc một đại chủng viện uy tín có tầm ảnh hưởng trên toàn giáo tỉnh Hà Nội. Bởi vậy khi ngài ngồi với anh chị em, ông tôi với mọi người một cách giản dị, bình dân khiến tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu:  “Thầy không gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ mình làm. Nhưng thầy đã gọi các con là anh em, vì thầy đã tỏ cho các con hết những gì thầy biết nơi cha thầy.” (Gioan 15:15) Ngài không ngại ngùng kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện về thời còn tu chui, đi làm nghề hớt tóc dạo để nuôi ơn gọi từ năm 1960 đến 1992. Đây là thời gian đối với ngài tuy dài, đầy thử thách, nhưng nó đã tôi luyện nên nhân cách sống, lối suy nghĩ và hành động của ngài dù sau này ngài nắm giữ bất cứ chức vụ nào.

Ảnh hưởng của thời gian cắt tóc dạo sống khó khăn ấy dường như đã trở thành một phần của mảnh đời của ngài, khiến cho ngài rất hãnh diện. Nó liên quan đến một kỷ niệm đặc biệt của cá nhân ngài, vì nhờ vào kinh nghiệm hớt tóc mà ngài đã có được mấy sợi tóc của Đức Giáo Hoàng. Ngài kể về câu chuyện xảy ra trong một lần ngài đi “Ad limina” tại Rôma. Ngài đã cho Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI biết về nghề nghiệp của ngài trước khi làm linh mục và được chọn làm giám mục, và ngài đã mượn cớ quan tâm đến mái tóc của Đức Thánh Cha rồi nhanh tay bứt luôn mấy sợi tóc của Đức Thánh Cha giữ làm kỷ niệm. Khi kể câu chuyện này, này tỏ ra hãnh diện, tự hào vì là người đã nhổ được tóc của “Phêrô”. 

Trong những lần trao đổi thân tình, ngài đã cho biết không phải tự nhiên mà ngài có được triết lý sống này. Thời gian lang thang đi hớt tóc dạo, bị trù dập, xua đuổi, ngài đã va chạm, gặp gỡ và tiếp xúc với đủ hạng người: già, trẻ, lớn, bé, tốt, xấu, tử tế, đểu cáng, hiền lành, lưu manh… Tất cả đã tôi luyện ngài để trở nên “tất cả cho mọi người” (1 Corinthians 9:22), đúng với châm ngôn giám mục của ngài sau này là: “Phục vụ trong Đức Ái” (Gl 5,13). Với cái nhìn tâm lý, những va chạm thực tế ấy đã cho ngài một tâm lý sống rất nhân bản, rất con người. Một trong tác phẩm về tâm lý của ngài mà tôi đã có cơ hội cùng cộng tác, đó là dịch phẩm “Tình Yêu và Cảm Xúc Của Phụ Nữ”, của André Binet, Tâm Lý Gia người Pháp. Tác phẩm được giải thưởng Missarel của Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp. Ngài đã đưa bản thảo cho tôi, và đề nghị tôi hiệu đính rồi xuất bản tại Hoa Kỳ. Khi tôi hỏi ngài: “Sao Đức Cha lại dịch sách này? Đây là tâm lý phụ nữ mà?” Ngài đã cười và nói, đại khái: “Sigmund Freud hơn 30 năm nghiên cứu về tâm lý mà còn không biết về đàn bà muốn gì, mấy anh chủng sinh lớ ngớ không biết về phụ nữ dễ bị đàn bà nó lôi đi, cả sau khi làm linh mục rồi nếu không có một kiến thức tổng quát cũng dễ rơi vào cám dỗ. Đó là lý do tôi dịch sách này. Ông là tâm lý gia chắc cũng biết tầm quan trọng của sức hấp dẫn của đàn bà rồi phải không?” Tác phẩm đã phổ biến rộng rãi năm 2012 và đã được gửi về cho ngài.

Nhớ lại lần đầu khi tới Đại Chủng Viện Hà Nội theo lời mời của cha giám học Đặng Xuân Thành, ngài đã đón tôi tại phòng riêng. Việc đầu tiên là ngài mang ra 4 bình rượu mà ngài nói là của những người quý mến tặng cho ngài, nay ngài muốn tôi cùng ngài cụng ly. Ngài nói: “Khi tôi qua Mỹ ông đã mời tôi uống rượu ngoại, bây giờ về đây tôi mời ông uống rượu nội.” Và ngài thêm: “Nhưng đây là thứ hàng nội thượng hạng!” Trong những lần đón tôi tại Đại Chủng Viện Hà Nội sau đó, lần nào ngài cũng dành cho tôi những cảm tình rất đặc biệt. Ngài lịch lãm, nhã nhặn, và chân thành. Cách tiếp đón khách của ngài phản ảnh lối tiếp khách của Thánh Bênêđíctô: “Đón tiếp khách như đón tiếp Chúa Giêsu.” Nhớ lại sau lần đầu khi về nói chuyện tại Đại Chủng Viện, ngài bảo tôi: “Ông là tiến sỹ Mỹ, còn tôi là tiến sỹ Rôma. Vậy hai chúng mình phải chụp chung một tấm hình xem tiến sỹ nào đẹp hơn tiến sỹ nào.” Tôi đã trả lời ngài: “Dĩ nhiên tiến sỹ Rôma đẹp và oai hơn vì trên đầu còn đội thêm chiếc mũ mầu tím.” Ngài hiểu ý và cười tươi. Tấm hình ấy cho đến hôm nay nó vẫn được đặt trang trọng trong phòng khách của tôi. Tâm tình khiêm tốn này phản ảnh thái độ bình dân của ngài như câu nói mà ngài đã nói được linh mục Nguyễn Văn Khải ghi lại khi ngài mới tốt nghiệp tại Rôma và về nước: “Mình nói với cậu. Mình học hành thì có bằng vậy. Mang tiếng là tiến sĩ chứ có ăn thua gì đâu! Mình học ở cái trường giống như trường dân tộc nội trú ở Việt Nam ấy mà!”

Sau này những lần tôi được mời nói chuyện tại Đại Chủng Viện, cũng như những lần ngài sang Hoa Kỳ cùng với cha Phạm Bá Quế, dù bận bịu, ngài vẫn dành cho cá nhân tôi cũng như anh chị em Nhóm Rau Muống những buổi gặp gỡ, thánh lễ, chia sẻ và dĩ nhiên là cha con ngồi lại “cụng ly”. Lần ghé thăm anh chị em, Chúa Nhật 21 tháng 1, 2024, Đức Cha đã đến gặp gỡ, dâng thánh lễ, và ký tặng sách cho các anh chị em. Ngài đã rất vui và hạnh phúc. Rất chân tình và dễ thương. Ngài đã về đến Hà Nội và gọi điện thoại qua cho hay ngài đã về nhà bình an khoảng 3PM, thứ Năm, 25 tháng 1, 2024. Và đó là lần cuối ngài gặp gỡ anh chị em Nhóm Rau Muống.

Triết lý ông tôi ngài cũng dùng để truyện trò, trao đổi một cách thân tình với các linh mục và chủng sinh mà tôi đã có dịp quan sát. Nó cũng chan chứa tình cảm. Không ranh giới, không phân biệt chức vụ nhưng chú trọng vào nhân phẩm và giá trị của con người. Điều này làm tôi nhớ lại triết lý “mình” của Đức Cha Mai Thanh Lương. Trong đời mình, Đức Cha Lương luôn luôn cư xử và đối đãi với mọi người bằng một tâm tình đơn sơ, chân thật. Mỗi khi hỏi ngài về chuyện gì, ngài thường đáp: “Mình biết ma gì mà nói.” Hoặc: “Mình đã bảo rồi mà. Cái đó mình không biết”. Mình. Mình. Mình. Những tiếng xưng hô và cung cách cư xử ấy càng làm tôn quý hơn phẩm giá và tư cách của một con người. Triết lý “mình” của Đức Cha Lương cũng giống như triết lý “ông tôi” của Đức Cha Minh là những gì mà tôi không bao giờ quên. Nó đã ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống của tôi.

Một lần trong khi nói chuyện thân mật giữa hai cha con, tôi đã thưa với ngài: “Đức Cha Lương đã qua đời rồi. Bây giờ con xin Đức Cha thay ngài giúp con về đời sống tâm linh đi.” Ngài nhìn tôi cười và trả lời ngay: “Ông là tiến sỹ rồi tôi làm sao mà dám làm bố ông? Chúng mình cứ coi nhau như bạn hữu, đối xử với nhau như ruột thịt, và dành cho nhau sự tử tế là đủ. Danh xưng không thật sự quan trọng giữa ông và tôi.” Quả thật, chúng tôi không là cha con, là nghĩa tử, là nghĩa phụ nhưng giữa tôi và ngài có một sự trân quý, tử tế và yêu mến nhau thật tình. Sau ngày ngài nghỉ hưu từ năm 2019, ngài đã không còn là giám mục phụ tá Tổng Giáo Phận Hà Nội và Giám Đốc Đại Chủng Viện Thánh Giuse nữa, nhưng ngài nói với tôi là ngài vẫn còn dạy mấy môn tại Đại Chủng Viện, nhất là môn tâm lý. Và chúng tôi vẫn thường xuyên nói chuyện với nhau qua facetime. Lúc nào cũng thấy ngài tươi cười, vui vẻ. Lâu lâu gửi chút quà về thì ngài lại nói: “Cái này tôi để chia cho mấy cha già, mỗi cha vài lễ chắc các cụ vui lắm.” Lần nói chuyện với ngài cuối cùng là 25 tháng 6 năm 2025.

Nhưng vào lúc 9:10am, ngày 4 tháng Tám, 2025 tôi nhận được tin từ Hà Nội:       

“Cụ vẫn đang thở máy ạ. Cũng khá mong manh, hôm nay mấy lần nguy kịch ạ.”

Và:

“Cụ kiên cường lắm ạ, chống lại các cơn sốt liên tục, và tuần trước đã tưởng hồi phục, nhưng con vi khuẩn nó mạnh quá. Giờ chỉ mong phép màu, xin Chúa và Mẹ thương cứu cụ. Thương cụ hiền lành tình cảm ạ.”

Nhưng chưa kịp phản ứng thì tin từ Hà Nội lại cho biết:

“Đức cha vừa qua đời rồi chú ơi, hồi 23giờ. Buồn lắm chú ơi!”

Tâm trí tôi như ngừng đọng. Tim tôi như đập chậm một nhịp. Chưa hết bàng hoàng, xúc động, một tin khác từ người bạn, người phụ tá và cũng là người đồng hành với ngài mà chúng tôi vẫn thường gặp gỡ cùng với ngài đã viết:

“Chào Anh Duyệt và các anh chị em. Mất rồi. Hết rồi. Không còn cơ hội cùng Đức Cha Minh dâng lễ và chia sẻ nữa.

Em được vinh hạnh hiện diện lúc Ngài trút hơi thở. Thật an bình và thanh thản.

Tạ ơn Chúa cho chúng ta được có những kỷ niệm với Đức Cha.

Cám ơn Ngài vì đã để lại mẫu gương người mục tử âm thầm phục vụ trong bác ái.

Cầu xin Chúa sớm đón Ngài vào vinh Quang Thiên đàng.

Xin Chúa nghe lời Ngài chuyển cầu cho chúng ta.

Buồn quá anh Duyệt và Anh Chị Em ơi. Mất rồi. Hết rồi cơ hội hàn huyên.

 

Xin nhớ đến nhau trong lời kinh cầu nguyện.”

Bruno

 

“Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ, cho linh hồn Đức Cha Laurenso Chu Văn Minh được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.”

Danh mục:
Tác giả: