Tư Tế theo phẩm trật Giê-su-Ki-tô
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Dương Trung Tín
Tư Tế theo phẩm trật Giê-su-Ki-tô
“Muôn thuở Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê”
(Dt 5,6).
Đức Giê-su Ki-tô là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. Ông Men-ki-xê-đê, theo sách Sáng Thế chương 14, từ câu 17-20, là vua thành Sa-lem và là Tư Tế của Thiên Chúa Tối Cao. Chính ông là người đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham đã dâng 1 phần 10 chiến lợi phẩm cho vị Tư Tế này.
Tại sao Đức Giê-su không là Thượng Tế theo phẩm trật A-a-ron mà lại theo phẩm trật Men-ki-xê-đê ? Ông A-a-ron là anh ông Mô-sê và là người Thượng Tế đầu tiên của dân Do-thái. Rồi từ ông trở đi, tức là chi tộc Lê-vi, được chọn để tiếp nối chức vụ tư tế. Chỉ có những người nam thuộc chi tộc Lê-vi mới được chọn làm tư tế, theo cách “cha truyền con nối”. Các chi tộc khác không được.
Đức Giê-su là con của Giu-se và Ma-ri-a, thuộc chi tộc Giu-đa, nên sẽ không có cửa để là tư tế. Ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét mới thuộc chi tộc tư tế A-a-ron, nên Gio-an Tẩy Giả mới có cửa làm tư tế.
Theo cách “Cha truyền con nối”, ngày nay không thích hợp nữa. Theo kiểu “Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét là đa”. Thực tế cho thấy, ông Vua đầu tiên thì mạnh mẽ, khôn ngoan, vì trải qua nhiều gian truân, vất vả mới dựng nên cơ đồ. Đến đời con, thì được sở hữu cơ đồ của cha, nên không mạnh mẽ và khôn ngoan bằng, và cứ thế…….cứ truyền hết đời này đến đời kia….làm vua. Thế nhưng, Cha “truyền” mà con không “nối” được, thì sự nghiệp tan tành; đất nước về tay vua khác.
Ngày nay, thể thức “Cha truyền con nối” không còn thích hợp nữa, cả trong tôn giáo lẫn chính trị. Bây giờ, cứ ai có tài, có đức thì được mọi người bầu cho, để làm Tổng Thống hay Thủ Tướng. Làm có thời hạn chứ không “Cha truyền con nối”. Trong tôn giáo, nhất là Công Giáo, cũng không theo thể chế “Cha truyền con nối” nữa, cứ ai muốn và được Chúa gọi thì có thể làm Tư Tế, làm Linh Mục của Chúa. Vả lại, Linh Mục sống độc thân, nên chẳng có ai để truyền; chẳng cần ai để nối.
Dầu vậy, trong Đạo Công Giáo phân biệt hai chức tư tế. Các tín hữu được nhận chức tư tế cộng đồng và các Linh Mục được nhận chức tư tế thừa tác. Ta cùng tìm hiểu về hai chức năng tư tế này trong Giáo Hội.
Theo Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội số 10, Hai chức năng tư tế này, “tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về yếu tính, song cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức tư tế của Đức Ki-tô theo cách thức riêng mình”.
Chức tư tế thừa tác, tức là các Linh Mục, “nhờ có quyền do chức thánh, các ngài đào tạo và cai quản dân Chúa. Các ngài đóng vai trò của Chúa Ki-tô, khi cử hành Thánh Lễ tạ ơn và dâng của lễ đó lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng”. Chức tư tế thừa tác là cử hành và dâng.Tức là các Linh Mục cử hành Thánh Lễ và dâng của lễ đó lên Thiên Chúa, để dân Chúa lãnh nhận ơn cứu độ.
Chức tư tế cộng đồng, tức là các tín hữu, “nhờ chức tư tế vương giả, họ được cộng tác vào việc dâng Thánh Lễ và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích hoặc khi cầu nguyện và tạ ơn bằng đời sống chứng tá thánh thiện; bằng sự từ bỏ và bằng sự bác ái tích cực”. Chức tư tế cộng đồng là tham dự và lãnh nhận. Có nghĩa là Các tín hữu trong Giáo Hội, khi được rửa tội, thì tham dự vào chức tư tế của Đức Giê-su bằng việc tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích. Trong đó có việc cầu nguyện và tạ ơn bằng chính đời sống thánh thiện của mình, qua việc sống bác ái và từ bỏ.
“Thật vậy, những người đã lãnh phép rửa, nhờ sự tái sinh và xức dầu Thánh Thần, được thánh hóa để trở thành chỗ ở thiêng liêng và nhận chức tư tế thánh, hầu qua hoạt động của con người tín hữu Ki-tô, dâng hy lễ thiêng liêng và rao truyền những kỳ công của Đấng kêu gọi từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Ngài”. Nghĩa là khi được rửa tội, thì người tín hữu trở thành con người mới, được thánh hóa và trở nên tư tế của Thiên Chúa. Bắt đầu từ ngày đó, họ sống với tư cách là Con Thiên Chúa; họ hoạt động với tư cách là một tư tế; họ dâng hy lễ thiêng liêng là chính đời sống của họ và họ rao truyền những kỳ công của Chúa đã thực hiện nơi bản thân họ, nơi chính cuộc đời của họ.
“Vì thế tất cả các môn đệ của Chúa Ki-tô, trong khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng Thiên Chúa, họ phải dâng mình làm hy vật sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Phải làm chứng cho Chúa Ki-tô trên khắp mặt đất và trình bày niềm hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu mà họ ôm ấp cho những ai đang khao khát”.
Người tín hữu Ki-tô, không chỉ mong ước và cố gắng sống tốt đẹp ở đời này mà còn hy vọng và chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu ở đời sau. Đó chính là chứng tá sống động nhất của một tín hữu Ki-tô.
Nói đến Linh Mục thì không thể không nói đến việc Dâng Lễ. Nói cách khác, việc Dâng Lễ là một việc hệ trọng nhất trong đời sống Linh Mục. Do đó những ai đã lãnh chức Linh Mục, tức là lãnh chức tư tế thừa tác, phải cố gắng và chuẩn bị hết sức chu đáo cho việc dâng Thánh Lễ. Vì công việc đó đem ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi người. Đừng vì những việc khác mà sao lãng công việc “cực thánh” này. Việc dâng Thánh Lễ chính là việc của Chúa Ki-tô đã dâng trên Thánh Giá đó.
Có thể nói cuộc đời của người Linh Mục có hạnh phúc không là qua việc dâng Thánh Lễ này. Vị Linh Mục mà nghiêm trang, sốt sắng và ý thức dâng Thánh Lễ, từ lời đọc, từng lời giảng, từ những cử chỉ có hồn, chứ không đọc cho xong; giảng bừa giảng đại, quơ qua quơ lại; dâng bao nhiêu Thánh Lễ cũng như một, một tâm tình, một tấm lòng thì đem lại ích lợi biết bao cho giáo dân cũng như cho chính bản thân mình. Điều dó cũng cho thấy, đời sống của vị Linh Mục đó thế nào.
Nói đến người giáo dân thì không thể không nói đến việc đọc kinh, cầu nguyện và dâng Lễ. Họ tham dự Thánh Lễ là họ cũng dâng với Chúa Ki-tô qua vị Linh Mục. Có thể nói là họ cùng “đồng tế”, chứ không thụ động như một người đi xem kịch, vì họ cũng là tư tế mà. Nên khi đi dâng Lễ người tín hữu Ki-tô phải nhớ mình cũng là tư tế, cùng “đồng tế” dâng lễ, nên phải dâng lễ cho sốt sắng và nghiêm trang.
Ngoài ra còn đọc kinh và cầu nguyện. Việc đọc kinh và cầu nguyện không là thước đo và không là “tấm vé” cho ta được vào thiên đàng. Đừng tưởng cứ đọc kinh thật nhiều, ngày nào cũng lần hạt thì chắc chắn sẽ lên thiên đàng. Điều đó không chính xác. Chẳng lẽ đọc vài câu kinh như thế là ta được vào thiên đàng sao, nghĩ như thế có quá ngây thơ không ? Vào thiên đàng mà dễ dàng vậy sao !
Vậy thì ta đọc kinh để làm gì ? Ta đọc kinh và cầu nguyện, đó chính là của ăn thiêng liêng cho linh hồn của ta. Như cơm gạo, thịt cá nuôi sống thân xác ta thế nào thì việc đọc kinh và cầu nguyện cũng là những món ăn cho linh hồn ta như vậy. Không ăn, không uống thì ta sẽ đói, chân tay bủn rủn không làm được việc gì. Cũng vậy, không đọc kinh, không cầu nguyện thì linh hồn của ta cũng sẽ yếu nhược, không nên thánh, nên thiện được.
Ta ăn cơm, ta uống nước là để cho ta có sức khỏe mà làm việc, chứ không phải ta cứ ăn no, uống say là tự động, ta cứ nằm đó là ta làm được việc này việc kia. Không. Ta mà ăn no, uống say mà nằm một chỗ thì ta sẽ thành “heo” thôi, chẳng làm được việc gì đâu.
Cũng vậy, việc đọc kinh và cầu nguyện của ta cũng không là tấm vé cho ta vào thiên đàng, nhưng ta sẽ nhận được nhiều ơn Chúa cho linh hồn, cho đời sống thiêng liêng của ta, để rồi ta mạnh mẽ luyện tập bỏ mình, bỏ những nết xấu mà tập tành những nhân đức, ta sẽ trở nên người thánh thiện. Khi đó ta mới chắc ăn là được lên thiên đàng.
Bởi đó, người tín hữu khi đọc kinh và cầu nguyện phải nhớ đến chuyện này chứ đừng ỷ vào việc đọc kinh và cầu nguyện. Khi đọc kinh ta phải ý thức mình là tư tế nên cũng phải đọc nghiêm trang như Linh Mục. Khi cầu nguyện ta cũng phải ý thức mình là tư tế của Chúa, nên phải cầu nguyện cho đàng hoàng. Việc đọc kinh và cầu nguyện, được coi là việc “trọng đại” của người giáo dân, trong đó đặc biệt là tu sĩ, chứ không phải chuyện chơi. Có thể nói mạnh và không sai lầm là: Người tín hữu mà không đọc kinh, không cầu nguyện thì không phải là người tín hữu đích thực.
Đức Giê-su Ki-tô là “Thượng Tế muôn đời theo phẩm trật Men-ki-xê-đê”. Còn chúng ta, chúng ta là “Thượng Tế muôn đời theo phẩm trật Giê-su-Ki-tô”. Nghĩa là Đức Giê-su Ki-tô “truyền”, chúng ta “nối” tiếp sứ mạng của Ngài trên trần gian và trong cuộc sống của ta.
Vậy mỗi chúng ta hãy nhớ mình là Tư Tế muôn đời của Thiên Chúa theo phẩm trật Giê-su-Ki-tô và thực hành theo cách thế của mỗi người. Nếu là Linh Mục thì hãy như Linh Mục Giê-su Ki-tô. Hãy dâng Thánh Lễ trên bàn thờ như Đức Giê-su Ki-tô đã dâng trên Thánh giá. Nếu là giáo dân, tu sĩ thì cũng hãy như Con người Giê-su Ki-tô. Hãy tham dự Thánh Lễ, đọc kinh và cầu nguyện như Đức Giê-su Ki-tô.
Chúng ta là Tư Tế “muôn đời” mà, nên ta hãy cố gắng tham dự và cử hành Thánh Lễ, biến “Thánh Lễ của Đức Giê-su Ki-tô” thành “Thánh Lễ của ta” ở đời và cả ở đời sau.Con người của ta đã là Tư Tế muôn đời theo phẩm trật Giê-su-Ki-tô, thì cuộc đời của ta cũng là Thánh Lễ muôn đời như Giê-su-Ki-tô luôn.
Lm. Bosco Dương Trung Tín