Nhảy đến nội dung

Văn minh, Sự Chết hay Tình Thương ?

Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên,

Vì anh em sắp được cứu chuộc.

( Lc 21, 28 )

Văn minh, Sự Chết hay Tình Thương ?

          Buổi sáng, mù sương giăng kín bầu trời, từng lớp mây xám xịt lất phất những hạt mưa bụi bay bay cho khí lạnh ùa về khắp chốn. Chúng tôi đến vùng đất thánh nầy hãy còn khá sớm, người người vừa bắt đầu tập trung rộn rịp, dù ngoài trời ẩm ướt không một dấu hiệu gì hứa hẹn cho một ngày đẹp nắng. Không ai bảo ai, tất cả hướng về ngọn đồi chính, nơi có chiếc kiệu gỗ đơn sơ của Bà Thánh mới, mà tới lúc đó tôi vẫn không tài nào đọc thuộc tên bà. Chúng tôi ai nấy đều chuẩn bị áo ấm, khăn quàng và ô dù cho cuộc rước kiệu dưới mưa.

            Lẫn trong đám đông có một số thổ dân, quen gọi là người da đỏ, nghiêm trang và đầy xúc động. Một phụ nữ thổ dân lớn tuỗi được ban tổ chức trao thánh tích của bà thánh mới, để bà cầm dẫn đầu kiệu rước. Với gương mặt đầm đìa nước mắt, người phụ nữ nhỏ nhẹ nhắc chúng tôi cầu nguyện cho các bệnh nhân khi mọi người tuôn đến chạm vào thánh tích. Vì mãi vây quanh chiếc kiệu và thánh tích của thánh nữ Kateri Tekakwitha trong niềm vui của ngày lễ hội, mọi người không còn để ý tới bầu trời u ám bên trên đang sáng dần lên. Và khi chiếc kiệu được nhấc lên để bắt đầu cuộc rước, thì những tia nắng ấm đầu tiên cũng vừa bắt đầu xuất hiện từ khoảng trời xanh hé mở, tỏa rộng, xóa dần đi ngàn mây xám.

            Đoàn người trật tự nối bước nhau trong tiếng hát nhẹ nhàng, thánh thót với những bài thánh ca Taizé, pha chút âm hưởng của người da đỏ cất lên nhịp nhàng. Khi đoàn rước tới lễ đài thì, như một phép mầu, bầu trời đã hoàn toàn trong xanh, cao vút, ngập tràn nắng ấm, khác hẳn với màu xám vần vũ chỉ độ chừng nửa tiếng đồng hồ trước đây. Tiếng trống độc đáo của người da đỏ bắt đầu trỗi dậy, như làm sống lại khoảnh khắc xa xưa với những tiếng bập bùng khi lớn khi nhỏ, khi chậm khi nhanh. Tiếng trống ngày xưa đã một thời gieo kinh hoàng, báo trước những đợt tấn công của thổ dân vào các làng mạc di cư khác bộ lạc, nơi đã từng nhuộm máu tử đạo của các vị hùng anh bất khuất, ghi dấu trung kiên cho Đức Tin ngời sáng, thành hạt giống nảy sinh ơn thánh, thánh hóa phần đất chúng tôi đang được diễm phúc đứng lên. Tiếng trống ngày nay chuyển đổi thành nhịp hân hoan cho hồn thiêng hàng mấy trăm năm trước, trở về kết nối nhiệm mầu tụng ca Thiên Chúa vĩnh cửu vinh quang. Hàng ngàn người thinh lặng, để tâm hồn hòa nhịp với âm nhạc thinh không của từng cơn gió rì rào, cùng tiếng trống vụt bay giữa trời thu bát ngát, rực rở ánh vàng của lá, màu xanh của trời, trong làn khí đột nhiên ấm hẳn lại của mùa hè da đỏ, như một biến đổi nhiệm mầu của Ơn Thánh. Tôi cảm nhận mình đã được quá nhiều ơn huệ thiêng liêng khi đến đây, tham dự vào buổi lễ tạ ơn chào mừng một Thánh Nữ, người con của bộ lạc vừa được tôn phong hiển thánh, niềm vinh dự rất lớn cho người da đỏ. Tôi cảm thông với niềm hân hoan lớn lao được họ nói bằng những giọt lệ nghẹn ngào trong từng điệu hát đơn sơ, như lòng chân thành của họ; để hiểu được nhiệm mầu của Tình Chúa yêu thương.

            Người thổ dân xứ nầy bấy lâu nay thường mặc cảm bị xem là người kém văn minh, giữa một xã hội tiến triển nhất nhì thế giới. Không biết người ta định nghĩa thế nào là văn minh, để rồi tự xếp hạng con người. Văn minh không phải là văn hóa, văn minh có trước văn hóa và văn hóa chỉ là một phần của văn minh. Như thế, đôi khi người có văn hóa chưa hẳn đã văn minh. Nhưng văn minh ảnh hưởng trực tiếp đến con người, dù họ có văn hóa hay không.

            Theo các nhà sử học, văn minh nhân loại được ghi dấu rất sớm chia theo từng thời kỳ: cổ đại, cận đại và hiện đại. Văn minh đánh dấu bằng địa danh, thường là những vùng tập trung dân cư, có sinh hoạt sầm uất còn lưu dấu. Thời cổ đại, người ta kể đến văn minh sông Nile của Ai Cập, và vùng viễn đông có văn minh Đông Sơn với trống đồng Ngọc Lữ của Việt Nam. Hoặc văn minh được phân chia theo sinh hoạt của con người, từ săn bắn của thời tiền sử, đến du mục, rồi văn minh nông nghiệp, và bây giờ là văn minh kỷ nghệ. Mỗi một thời đại văn minh, dù muốn hay không, sinh hoạt con người đều bị ảnh hưởng. Chúng ta đang sống ở thế kỷ 21 với văn minh kỹ nghệ, mà người ta cho là, vượt bậc; thì không thể có cùng một cách sống như những người ở thế kỷ 18, 19 khi văn minh nông nghiệp còn đang thịnh hành. Và với đà tiến triển quá nhanh của kỹ nghệ, nhưng lại đưa con người vào thời quá độ của những sự cố tạo khủng hoảng như hiện nay; thì liệu nhân loại nên tiếp tục đà tiến của văn minh kỹ nghệ hay phải tìm một nền văn minh nào khác để sống còn và phát triển ?

            Tôn giáo cũng đã xuất hiện rất sớm, ngay từ thời hồng hoang tiền sử vì con người đã cảm nhận ngay thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình, luôn luôn cần tìm kiếm ơn trợ giúp của thần minh. Có thể nói, tôn giáo có trước văn minh, cũng biến chuyễn theo từng thời văn minh nhân loại từ cổ đại, cận đại và hiện đại. Tôn giáo ảnh hưởng đến văn minh, hay văn minh ảnh hưởng đến tôn giáo, là đề tài đang được thời đại nầy bàn cải. Có những tôn giáo bị văn minh ảnh hưởng như ngày nay, thời hiện đại, không ai còn thờ thần mưa, thần gió, hay sấm sét, ông ri, bà rằn… của thời cổ đại. Nhưng cũng có những tôn giáo vẫn còn ảnh hưởng trên văn minh nhân loại như Kitô giáo, Phật giáo hay Hồi giáo. Mức độ ảnh hưởng như thế nào thì lại là một việc khác, tôi không dám lạm bàn vì không phải ngành chuyên biệt của tôi. Tôi chỉ xin được nhìn về tôn giáo từ quan điểm của một phụ nữ bình thường sống đầu thế kỷ 21, với những hệ lụy của con người, mà văn hoa hay văn hoá, gọi là nhân bản; một nhân bản hữu thần, nhìn nhận có tôn giáo, mà lại là Công Giáo vì, đơn giản thôi, tôi không phải là người Phật Giáo hay Hồi Giáo.

            Không ai còn có thể chối bỏ nền văn minh hậu kỹ nghệ phát triển hiện đại đem đến cho con người những thành tựu khoa học vượt bậc. Mức độ phát triển của thế giới bắt đầu được đo bằng vận tốc ánh sáng, đã hoàn toàn ảnh hưởng lên con người, có sức biến đổi từ tư duy, sinh hoạt, đến phẩm giá vật chất hay tinh thần của họ. Trên đà tiến tăng tốc quá nhanh, những ai không theo kịp sẽ bị bỏ lại phía sau, như một cổ máy lỗi thời chỉ đáng vứt đi. Người ta không muốn dừng lại, và cũng không thể dừng lại để kịp nhìn ra những hay dở, tốt xấu cần thiết cho con người thật sự phát triển. Người ta đã biến con người thành máy móc, đã được lập trình, chỉ cần chạy đúng chiều quy định để nguồn máy văn minh kỷ nghệ sản xuất những sản phẩm công nghiệp cung cấp cho, cái gọi là, nhu cầu của con người. Người ta chỉ còn chú ý đến những phát minh thành tựu nhất, đem đến cho họ nhiều lợi lộc nhất, những hình thức bề ngoài bề thế nhất. Người ta đánh giá văn minh hay kém văn minh cũng tùy thuôc vào hình thức bề ngoài đó. Nhưng tiếc thay, con người không phải là những cổ máy, luôn luôn được upgrade và update như nhau để biến thành một thứ nô lệ mới, nô lệ vì chính nhu cầu của con người, trong các chế độ tư bản trắng hay đỏ, vàng hay đen. Một số không ít những con người bị vứt ra bên lề như những vật li tâm, không còn đủ sức bám vào vòng quay tít mù của văn minh. Trong một thế giới vô tâm, không còn tình thương, đã chà đạp họ như những phế vật, bỏ mặc họ vở sống vở chết bên lề xã hội, trên đường phố, chỉ còn biết ẩn náu vào những tệ đoan, rồi khinh ghét họ trong khi chính họ là những nạn nhân đáng thương của nền văn minh hiện đại .

            Thời hiện đại, khi sinh hoạt con người không còn đóng khuôn sau lũy tre làng, suốt đời quanh quẩn với công việc đồng áng như trong thời văn minh nông nghiệp. Người phụ nữ cũng không còn có thể suốt ngày ngồi nhà để chỉ lo bếp núc, nội trợ, tề gia. Nền văn minh nông nghiệp xa xưa chỉ cần nhân lực, không cần kiến thức vì mọi việc đều làm theo kinh nghiệm cha truyền con nối. Với nền văn minh kỷ nghệ, người phụ nữ cũng phải xông xáo vào cuộc đua upgrade và update để học và làm việc vì sinh hoạt xã hội đã tạo nên. Người phụ nữ không thể suốt đời chỉ đảm trách bổn phận chửa đẻ không thay thế được của đàn bà, để mặc đàn ông lăn xả vào xã hội, nuôi sống gia đình. Chưa kể, có những người đàn ông đã dùng khác biệt giới tính, khống chế người phụ nữ vào bổn phận khốn nạn của loài động vật giống cái, như một nhà văn nữ đã từng kêu lên, để bắt họ phải cúi đầu tùng phục, suốt đời tùy thuộc đàn ông. Tôi nhớ vào thời gian đầu khi miền Nam Việt Nam bị cộng sản chiếm đoạt, một nhà thương phụ khoa lớn nhất thành phố bị đổi tên thành xưởng đẻ, cho hợp với thứ văn hóa duy vật khỉ thành người của nền văn minh con khỉ đột, giữa thời hiện đại. Một nền văn minh không tình thương thì có phát triển đến đâu, cũng chỉ đẩy con người vào đường hủy diệt.

            Cách đây đã lâu, một người bạn khuyên tôi: Chị ơi, lúc nào cảm thấy buồn chán quá thì hãy đọc Thánh Vịnh 118 “ Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ”. Vâng, Thiên Chúa mà tôn giáo tôi tôn thờ không phải là ông thần trên cao, giáng phạt tùy thích, nhưng là một Thiên Chúa luôn gần gũi với con người, là Đấng cảm thương con người. Một Thiên Chúa vô cùng nhân bản, Đấng Làm Người, cùng sống như con người, với con người. Một Thiên Chúa “ ngồi bên bờ giếng ” để chờ đợi gặp gỡ từng con người cá biệt ngay trong sinh hoạt thường ngày của họ, để chuyện trò với họ, cảm thông và cảm thương họ. Kiên nhẫn giảng giải và giải thích cho họ, một phàm nhân hèn kém, hiểu thế nào là Sự Sống của chính Đấng là Sự Sống vô biên. Hiểu được Thiên Chúa, Đấng muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương với con người, mới hiểu được những ơn huệ quí giá mà Ngài ban cho con người.

            Không phải tình cờ mà các khoa học gia phát minh được những thành quả lớn như hiện nay, nếu họ không được Đấng Tạo Hóa phú bẩm cho trí óc thông minh và điều kiện để phát triển. Khoa học ngày nay tiến triển vượt bậc, là món quà lớn Chúa ban cho nhân loại, tùy cách sử dụng những món quà đó sẽ trở nên hữu ích hay hủy hoại con người. Chối bỏ những thành tựu của nền văn minh kỷ nghệ, là chối bỏ ơn huệ lớn lao được ban cho nhân loại. Nhưng tôn thờ khoa học, kỷ thuật hay nhân văn, như thứ văn minh duy nhất điều khiển con người, biến con người thành một thứ máy móc vô tâm, thì con đường hủy diệt nhân loại bằng chính những phát minh kỷ nghệ, không còn xa. Nền văn minh kỷ nghệ phải được hướng dẫn bằng một nền văn minh khác, nhân bản hơn, cao quí hơn: Nền Văn Minh Tình Thương để giúp con người tồn tại và phát triển khi văn minh hiện đại đã đưa con người vào sự cố quá độ như hiện nay.

            Để khám phá ra con đường Tình Thương, từ 2000 năm trước đã có một Người tên Giêsu khai mở Đường đưa nhân loại về Sự Sống của Đấng là Tình Thương. Chính Tình Thương, chân thật và công chính, thay đổi tầm nhìn của con người, giúp con người khám phá ra một góc độ khác của thế giới không còn đặt căn bản trên giàu sang và quyền thế. Như một nhiếp ảnh gia điêu luyện nhà nghề, điệu nghệ giữ lại những tấm ảnh đầy nghệ thuật dù cũng một ngoại cảnh mà người khác không nhìn ra; Tình Thương cũng cống hiến cho nhân loại những quang cảnh tuyệt vời của đời sống, dù đầy nghịch cảnh đau thương. Hình ảnh Thập Giá Chúa Kitô trong chiều tử nạn là dấu chỉ của Tình Thương lớn lao nhất của một Thiên Chúa chết cho con người, không phải là một nghịch cảnh ngoại thường khai mở cho nhân loại nền văn minh lớn nhất, độc đáo vô song từ cổ chí kim: Văn Minh Tình Thương, đó sao ? Trong nền văn minh tình thương không ai bị chê là kém văn minh, không ai bị loại bỏ, không ai bị chà đạp, khinh khi vì chính Thiên Chúa là Người trong cùng hàng ngủ của họ với Tình Thương vô song của Ngài. Người ta chưa nhìn thấy nền văn minh tình thương đó vì họ chưa hiểu Tình Thương là gì, cùng một nghĩa chưa hiểu Thiên Chúa là ai, vì Chúa là Tình Thương.

            Không phải một người bỏ chồng, bỏ vợ, chạy theo tình nhân, tự do ngoại tình rồi bảo đấy mới là tình yêu đúng nghĩa. Hay buông theo dục tình đồi bại mà quan hệ bất chính ( xem Rm 1, 26-27), rồi bảo đấy mới là tình yêu văn minh. Lầm lạc và giả dối đã làm con người lệch hướng. Thiên Chúa chân thật không thể tìm bằng con đường giả dối, Tình Yêu của Đấng Công Chính không thể có trong điều bất chính.

            Trước mỗi bài viết tôi thường dành nhiều thời gian cầu nguyện, xin Ơn soi dẫn rồi chờ đợi, lắng nghe và ghi lại những biến chuyển bên ngoài, cũng như trong tâm hồn tôi. Bài viết của tôi không bao giờ tùy hứng, nhắm mắt phóng bút theo trí tưởng tượng, hay mộng mơ xa vời để bàn chuyện trên trời dưới đất, văn hoa mà trống rỗng. Nhưng những gì tôi viết là những cảm nghĩ thật trước những điều tôi đang sống với, những điều thật  xảy ra cho tôi. Lần nầy, lời cầu nguyện của tôi được đáp trả bằng câu: Up to you, Tùy con ! Làm tôi ngạc nhiên không ít, cũng đem đến nhiều do dự cho tôi. Suy đi nghĩ lại, lời đáp trả đó đã cho tôi thêm lần nữa nhận ra Đấng thiêng liêng mà tôi tôn thờ là một Thiên Chúa vô cùng tự do, không bao giờ bắt buộc ai phải theo Ý Ngài, mà luôn luôn cho con người có quyền chọn lựa để làm theo Ý Chúa hay theo ý họ. Ôi tự do đúng ra là quyền đáng sợ cho con người ! Thiên Chúa không đòi buộc con người nên thánh, nhưng Ngài mời gọi chúng ta nên hoàn thiện như Cha là Đấng Hoàn Thiện. Một lần nữa, tôi hiểu ý nghĩa sâu xa của tiếng Xin Vâng cùng Thiên Chúa. Lời xin vâng của Chúa Giêsu đã đem cho Ngài cái chết đau thương trên Thánh Giá để cứu chuộc loài người đã lỗi nghĩa cùng Cha, Đấng Tạo Tác nên nhân loại, được trở về với Thiên Chúa. Tiếng Xin Vâng của Chúa Giêsu cũng để loài người nhận biết quyền năng lớn lao của Thiên Chúa trên Sự Sống, có quyền phục sinh con người như Ngài đã cho Chúa Giêsu Phục Sinh để nên Đấng Kitô của Thiên Chúa và của con người. Mẹ Maria đã Xin Vâng dù chưa hiểu lời Xin Vâng đó về sau đã làm cho một lưỡi gươm đâm thâu lòng Mẹ, nhưng chỉ hoàn toàn phó thác vào quyền năng Thiên Chúa. Sau nhiều ngày suy nghĩ, đắn đo vì tôi biết lời Thưa Vâng đối với Đấng Toàn Năng không bao giờ là điều dễ dàng cho một phàm nhân yếu hèn như tôi. Tôi đặt trọn niềm tín thác vào Tình Thương của Thiên Chúa vẫn dành cho tôi. Tôi đặt mình dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, trông nhờ lời cầu bàu của Mẹ Maria và các thánh tôi hằng yêu mến.

            Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Thiên Chúa, vẫn chưa được loài người nhận ra rõ ràng vì những hạn hẹp của trí óc loài người. Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn trong những phép lạ chữa lành, làm mọi người cứ tưởng Chúa là thầy lang, rồi cứ tìm Chúa để chữa bệnh. Chúa là Đấng hay xót thương, luôn luôn cứu chữa con người; ngày xưa Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ để chữa lành bệnh nhân, nhưng sau đó Ngài ngăn cấm người ta loan truyền những phép lạ trị bệnh vì mục đích Ngài đến thế gian không phải chỉ để chữa bệnh, nhưng để Cứu Chữa cả giòng sinh mệnh lớn lao của con người., vô biên, trường cữu. Chúa Thánh Thần cũng không bao giờ là Đấng dối gian, giả trá, vì Thần Khí của Đấng là Sự Thật không bao giờ giả trá. Có những người làm lung tung theo lòng dối trá, lọc lừa của họ rồi bảo đấy là do bởi Chúa Thánh Thần, thì quả thật, họ đã đánh lừa cả thần thánh, tự cho mình là thần thánh.

            Thần Khí của Thiên Chúa, đối với tôi, cũng là Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống đã đến với con người trong cuộc đời trần gian, sống với loài người với mọi nỗi truân chuyên của kiếp người. Qua Chúa Giêsu, một Thiên Chúa đã nói với loài người bằng ngôn ngữ của nhân loại, để mạc khải cho trí óc loài người hạn hẹp của tôi hiểu về Thiên Chúa vô biên. Chúa Giêsu, Đấng hiền lành và khiêm nhượng, Đấng là Sự Thật của Thiên Chúa; thì hôm nay muốn đón nhận Thần Khí của Ngài, tôi phải đón nhận bằng tâm hồn hiền hậu, khiêm nhu, chân thành và trong sáng. Học biết Chúa Giêsu qua Lời Ngài hằng sống, để hiểu được Thần Khí của Đấng Hằng Hữu thiêng liêng ẩn mình nhưng không thinh lặng đang sống với loài người, với tôi trong thế giới hôm nay. Thánh Thần Thiên Chúa vẫn hoạt động trong tâm hồn người thế, những tâm hồn chân thật để đón nhận Sự Thật của Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu để Đức Tin thành nhịp cầu nối kết Thần Khí của Ngài với nhân loại. Để nhận ra Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Sự Sống thật của Thiên Chúa, luôn luôn đến để Cứu Chuộc con người mọi thời đại, đặc biệt thời đại nầy, khi mọi người hoang mang sợ hãi không biết tương lai nhân loại tiến về đâu.

            Đang khi tôi viết bài nầy, một biến cố đã xảy ra không xa nơi tôi ở. Tôi đã thật sự bàng hoàng khi xem hình ảnh đau thương của vùng bị cơn bão lớn nhất thế kỷ, monster storm, tàn phá. Chỉ sau một đêm bị bão hoành hành, nhiều thành phố của vùng Đông Bắc Hoa Kỳ đã nên hoang tàn không thể tưởng. Tôi cảm thương họ, đau với cái đau của họ, mang chung một niềm lo sợ như họ. Cơn bão không phải chỉ ảnh hưởng đến dân cư vùng lâm nạn, nhưng ảnh hưởng đến chính tinh thần của tôi và nhiều người khác nữa, tôi tin như vậy. Tôi cầu nguyện cho họ như tôi cầu nguyện cho tôi. Cách đây hơn 10 năm, 2 tòa nhà đồ sộ kiên cố tại thành phố được mệnh danh là văn minh bậc nhất hoàn cầu, là Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới, The World Trade Center, đã sụp đổ tan tành chỉ sau hơn một giờ gặp nạn. Bây giờ, thành phố của văn minh giàu có bậc nhất hoàn cầu đó, nơi mang ánh sáng của thế lực loài người, là niềm tự hào cho thế gian, người người nhờ nó mà trở nên giàu có; sau một đêm bão tố đã nên tối tăm và hỗn mang trong nỗi kinh hoàng của bao người, mà thời gian phục hồi của nó được tính bằng nhiều năm về sau. Tôi đọc được gì và học được gì trong biến cố đó.

            Gần 100 năm về trước tại Fatima, Mẹ Maria đã nhắn nhủ loài người cầu nguyện và hoán cải, mấy ai hiểu được ý nghĩa đó trọn vẹn. Hoán cải không phải suốt ngày chỉ lo đọc kinh cầu nguyện để được lên thiên đàng, hưởng phước đời đời, mà không để ý tới hoàn cảnh bên ngoài, để hoán cải phải là một thay đổi sâu xa từ trong tâm hồn. Và cầu nguyện để xin được sức mạnh mà thay đổi cả cuộc sống từ bên trong cũng như bên ngoài, thay đổi được thế giới, cứu loài người khỏi họa diệt vong, mà tự sức người không bao giờ thực hiện nổi dưới áp lực hấp dẫn hòa nhoáng của tên thủ lãnh thế gian. Ngày nay, những biến cố lớn lao nhìn thấy được, cho con người biết đến lúc phải thay đổi, không thể còn sống với nếp sống cũ, với những lo toang cũ mà cứ chạy theo sự giàu sang vật chất, đánh mất tinh thần. Như anh nhà giàu giàu có đã buồn rầu bỏ  Chúa ra đi, con người ngày nay cũng sẽ mất Thiên Chúa, Đấng là sự sống, nếu chỉ bo bo lo cho sự giàu sang, chạy theo giàu sang của nền văn minh vật chất, không tình thương.

              Giáo Hội vừa bắt đầu năm Đức Tin đúng lúc cần thiết để dân Chúa canh tân Niềm Tin của mình, không phải chỉ để được lên thiên đàng hưởng phước đời đời như niềm tin cũ, nhưng thực sự để nhân loại được sống và sống dồi dào ngay trong thế giới nầy. Trước những bế tắc của con người trong thời đại đầy tối tăm bạo loạn, nhiễu nhương do cả thiên tai lẫn nhân tai, Đức Tin vào Thiên Chúa chân thật, đầy Tình Thương sẽ dẫn đưa loài người vượt thoát cảnh tăm tối hôm nay. Ánh Sáng Chúa Kitô, Thần Khí của Đấng Cứu Chuộc loài người luôn luôn là ánh sáng soi đường để loài người bước đi, dù tăm tối hay giữa bão tố bên trong cũng như bên ngoài hòng tiêu diệt con người. Rao giảng về Tin Mừng cứu độ không phải chỉ là lời rao giảng trên môi, nhưng phải thật sự bắt nguồn từ tấm lòng chân thành không gian dối, để Tin Mừng đó thật sự là Phúc Âm cứu sống con người.

            Lạy Mẹ Maria, Người Nữ đầu tiên đón nhận Đức Tin vào Con Thiên Chúa Hằng Sống, xin cầu bàu cho chúng con.

            Xin Thánh Kateri Tekakwitha, người đã vượt hàng mấy trăm cây số ngàn trên đường dong ruổi tìm kiếm Thiên Chúa với đức tin chân thành mãnh liệt, bất chấp gian nguy cho thân gái dặm trường; xin giúp con được kiên vững trên đường tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu độ con và hằng cậy trông vào Tình Thương Thiên Chúa, là nguồn giải thoát chúng con.

Nam Hoa

Tác giả: