Nhảy đến nội dung

Xin Chúa chữa cho ta - Chúa nhân bánh ra nhiều

9.2Thứ Sáu trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm

1 V 11:29-32; Tv 81:10-11,12-13,14-15; Mc 7:31-37

XIN CHÚA CHỮA CHO TA

Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Chúa Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.

Cuộc chữa bệnh có những cách thực hành quen thuộc trong các truyện phép lạ thời đó. Đức Giêsu đưa anh bệnh ra riêng. Tất cả chuyện này có ý là giữ bí mật cách trị liệu của vị thầy. Các cơ quan có bệnh được chạm đến. Vị thầy ấn ngón tay trên hai tai điếc, rồi bôi nước miếng lên cái lưỡi ngọng. Ngước mắt lên trời là để xin sức mạnh siêu phàm; thở dài hay rên cũng nhắm như vậy. Tiếng epphatha trong bối cảnh phép lạ Hy Lạp là lời phù chú không ai hiểu được; nhưng trong Mc, từ này đã được dịch ra rõ ràng (tương tự 5,41). Đức Giêsu cho người ta biết rõ ràng quyền lực của Người. Đây là lời Người nói với anh bệnh cho đến lúc này vẫn chưa có khả năng nghe được, chứ không phải là nói với các cơ quan bị bệnh. Tức khắc, anh này được lành; sự kiện anh được lành được nêu ra như một điệp khúc đáp lại lời vừa được truyền ra. Rất có thể chi tiết “lưỡi bị buộc” có ý nói đến tên quỷ của bệnh, mà nay anh này đã được giải thoát khỏi.

Đức Giêsu truyền cả anh bệnh đã lành cũng như những người có mặt phải giữ im lặng. Nhưng những người đã đón nhận được mạc khải trong phép lạ này không thể giữ kín được. Tác giả Mc muốn nhắc độc giả vừa phải giữ làm sao để người ta khỏi hiểu sai thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu, vừa phải nhận ra và giới thiệu Người là Đấng Cứu Thế. Phản ứng hứng khởi của dân cho ta lời giải nghĩa thần học của phép lạ. Nhờ hoạt động của Đức Giêsu, cuộc tạo thành đã hư hỏng nay được tái thiết (x. St 1,31).

Tin mừng kể lại như sau: “Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.33 Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Épphatha", nghĩa là: hãy mở ra!35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”.

Quả thật, niềm vui được chữa lành bệnh không chỉ nơi người bị bệnh mà niềm vui đó còn được lan tỏa nơi những người xung quanh. Để cảm nghiệm được niềm vui đó, chúng ta phải đặt mình vào vị trí vừa là người bị bệnh vừa là người trung gian cầu xin Chúa chữa bệnh.

Ở đâu có sự hiện diện của Chúa là ở đó có niềm vui. Niềm vui không chỉ được Chúa chữa lành bệnh tật mà niềm vui đó còn đem lại cho chúng ta sự sống cửu. Vì thế, mỗi ngày sống chúng ta đừng chạy đến với Chúa để xin Chúa điều này điều kia, mà trước hết, chúng ta hãy chạy đến với Chúa với tâm tình là một người con để dâng lên Chúa những tâm tình như người con đối với cha mẹ của mình. Để từ đó, chúng ta mới có một kinh nghiệm sống là sống cho Chúa như lời thánh Phaolô đã dạy: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa”.

Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bày hay diễn đạt một lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm, không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.

Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khuynh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.

Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: “Epphata”: Hãy mở ra.

Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh ta mong đợi.

Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Epphata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa, để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.

Qua trang Tin mừng này, có lẽ tạo cho mỗi người cảm nhận được niềm vui từ người bệnh cũng như những người cộng tác đem người bệnh đến để xin Chúa Giêsu chữa trị.

Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm cho chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.

10.2Thánh Scholastica, Đt

1 V 12:26-32; Tv 106:6-7,19-20,21-22; Mc 8:1-10

CHÚA NHÂN BÁNH RA NHIỀU

Từ cuối thế kỷ thứ VIII, lịch Phụng Vụ của Mont-Cassin định ngày kỷ niệm Scholastica vào ngày 10 tháng 02. Việc tôn kính thánh nữ được lan rộng, nhất là trong các Đan viện từ thế kỷ thứ IX.

Scholastica sinh tại Nursia (Ombrie) khoảng năm 480, là em của thánh Bênêđictô. Thánh Grégoire Cả (Dialogues II,33-34) nói rằng, chị đã tận hiến cho Thiên Chúa từ khi còn bé và có thói quen đến thăm anh một năm một lần tại núi Mont-Cassin. Hai vị thánh gặp nhau và chia tay vào lúc đêm, vì theo luật dòng, Viện phụ không được phép rời khỏi Đan viện lúc đêm.

Thánh Grégoire Cả nói, vào buổi chiều khi họ gặp nhau lần cuối cùng, Scholastica đã xin anh : “Em xin anh, đừng bỏ em đêm nay : hãy nói cho em nghe về niềm vui của đời sống trên trời.” Thánh Bênêđictô trả lời : “Em nói cái gì vậy, hãy ra ngoài Đan viện, anh không được phép.” Thánh Grégoire viết tiếp : “Bầu trời không gợn một đám mây ! thánh nữ nghiêng đầu cầu nguyện. “Khi Bà ngước mặt lên, sấm sét bùng lên dữ dội và cơn mưa ập tới, đến độ vị đáng kính Bênêđictô và anh em đi theo ngài không thể vượt qua nơi mà họ đang trú…Như thế họ đã tỉnh thức suốt đêm, trao đổi những việc thiêng liêng cho tới sáng.”

Ba ngày sau, khi thánh Bênêđíctô ở Đan viện, thấy linh hồn của người em mình, dưới hình chim bồ câu, bay lên trời. Ngài hiểu rằng em đã rời bỏ trần gian và đã đi tìm xác em về đặt trong ngôi mộ ngài đã chuẩn bị cho chính mình. Câu chuyện trình thuật kết lại như sau : “Những ai đã có tinh thần luôn kết hợp trong Chúa, sẽ không bao giờ chia lìa nhau ngay cả trong mộ” (Dialogues II,34).

Hiện tại di hài của thánh nữ Scholastica và thánh Bênêđictô được yên nghỉ dưới bàn thờ trong tu viện ở Mont-Cassin.

Scholastica và Bênêđictô là hai tâm hồn luôn kết hợp sâu xa trong Chúa, vì giữa họ, tình yêu thiên linh là nguồn mọi tình bạn chân thật.

Thánh Grégoire Cả đã giải thích “phép lạ” do lời cầu nguyện của thánh nữ : “Đừng lấy làm lạ, trong trường hợp này, một phụ nữ lại mạnh hơn : em khao khát gặp anh mình lâu hơn. Và như thánh Gioan nói : Thiên Chúa là Tình yêu, Bà mạnh hơn chỉ vì Bà yêu nhiều hơn.” Bà đã nói với Viện phụ: “Em van anh, mà anh lại không chịu nghe em. Em cầu xin Thiên Chúa và Người đã nhậm lời.”

Lời cầu nguyện của thánh nữ Scholastica gợi lên “tình yêu không vấy bẩn” và “sự dịu dàng” mà các tâm hồn phục vụ Thiên Chúa được cảm nghiệm.

Tin mừng hôm nay thánh Marcô thuật lại việc “Đức Giêsu chạnh lòng thương”, Người chạnh lòng thương đối với đám đông dân chúng, vì họ ở luôn với Chúa đã ba ngày rồi mà không có gì ăn. Người chạnh lòng thương trước sự bối rối và bất lực của các môn đệ khi phải đối diện với cái đói của đám đông dân chúng, các ông không biết phải làm sao chỉ còn cách xin Thầy giải tán đám đông để họ tự lo.

Thế nhưng, trước cảnh hoang vắng của đất trời và sự hối hả của thời gian, Đức Giêsu đã biến nơi hoang vắng ấy thành lời tạ ơn, thành bữa tiệc huynh đệ, thành nơi trao gửi tình thương và sự cảm thông chia sẻ. “Người hỏi các ông: Anh em có mấy chiếc bánh? Các ông đáp: Thưa có bảy chiếc. Người truyền cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho dân chúng… dân chúng đã ăn và được no nê” (Mc 8,5-8a).

Đã ba ngày đám dân chúng đi nghe Chúa giảng mà không có gì ăn, Đức Giêsu động lòng thương xót họ nên bảo các môn đệ lo cho họ ăn, vì sợ họ về mệt lả dọc đường. Các môn đệ thưa ở nơi hẻo lánh này không thể tìm đâu đủ bánh cho họ ăn, vì các ông chỉ có bảy chiếc bánh và mấy con cá. Chúa liền bảo dân chúng ngồi xuống, rồi Người cầm lấy bánh và cá của các ông, tạ ơn, rồi trao cho các ông phân phát cho dân chúng ăn. Mọi người đều ăn no nê và còn dư bảy thúng. Số người ăn độ bốn ngàn.

Tin mừng hôm nay nêu bật lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu. Người tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Người không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm đâu ra của ăn. Sở dĩ Đức Giêsu đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì Người đã chạnh lòng thương xót họ. Vì thế, mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối đều phải được khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc không sớm thì muộn, những công việc ấy cũng bị chen vào ý đồ ích kỷ, vụ lợi.

Chúa Giêsu làm phép bánh xong, Người không đích thân phân phát mà trao cho các môn đệ để các ông phân phát. Nghĩa là tuy Chúa có thể ban bánh cho lương dân, nhưng Người muốn chúng ta góp phần mình vào đó. Chính Chúa Giêsu đã bảo các ông hãy dọn ra cho đám dân chứ không nhờ ai khác. Như vậy, Chúa cũng bảo chúng ta phải có liên đới với những người chung quanh (nơi giáo xứ, trường học, nơi làm việc) cả tinh thần lẫn vật chất:

Về tinh thần: có trách nhiệm về đức tin với cận nhân. Đó không phải là chuyện chỉ dành cho cha xứ, dành cho các giáo lý viên, mà là mọi người con Chúa đều mang trên mình sứ mạng phải truyền bá và làm chứng đời sống đức tin và đạo đức cho anh em.

 Về vật chất: biết chia sẻ cơm áo cho người thiếu thốn hơn mình. Đó không phải chỉ là việc những nhà từ thiện, những tổ chức cứu trợ, mà là trong khả năng chung tay đóng góp của mình.

Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ, Đức Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo hội, bằng cách phân phát, chia sẻ. Đám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát ngày nay vẫn còn, là vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhận ra sự quan tâm đầy tình thương của Chúa Giêsu. Các môn đệ đưa cho Chúa “bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ”, Chúa làm phép lạ trên những đóng góp đó, sau đó Chúa “trao lại” cho các môn đệ để các ông phân phát cho dân. Qua đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta đóng góp phần nhỏ mọn của mình vào công việc của Chúa.

Noi gương các môn đệ, chúng ta sẵn sàng dâng cho Chúa những gì mình có để thực hiện việc tông đồ, đừng ngại thua kém hay có ít quá… hãy cộng tác vào công việc của Chúa, nhất là đức tin, vì Chúa có thể làm tất cả từ “không” ra “có”, nhưng Người muốn cho con người đóng góp vào công trình của Người.

Tác giả: