Chúa Giêsu và con đường bình an - Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Ngài
- T5, 22/05/2025 - 07:55
- Phạm Văn Trung
CHÚA GIÊSU VÀ CON ĐƯỜNG BÌNH AN
Một trong những nghịch lý lớn trong Tin Mừng là vấn đề bình an. Một mặt, Chúa Giêsu nói trong Bữa Tiệc Ly: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14:27); mặt khác, khi Ngài sai 72 môn đệ đi, Ngài nói, “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10: 34) và mô tả rằng vì Ngài, ngay cả các gia đình cũng sẽ bị chia rẽ.
Ngài đến để mang lại bình an hay chia rẽ, đoàn kết hay phân tán?
Ngài đã đến rõ ràng như là “Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:5) để thực hiện những gì các thiên thần đã hát vào ngày Ngài được sinh ra, “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Ngài đã mang lấy bản tính con người của chúng ta trong chính xác thân xác của Ngài để thiết lập giao ước hòa giải dứt khoát giữa Thiên Chúa và nhân loại. Ngài đã đến để “dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1:79).
Nhưng Ngài đã để mỗi người được tự do. Không phải ai cũng sẽ chọn đi theo Ngài trên con đường bình an. Không phải ai cũng sẽ tin hoặc chấp nhận những gì Ngài mô tả là điều kiện thiết yếu của bình an. Trên thực tế, nhiều người sẽ quyết làm ngược lại với những gì Chúa Giêsu nói - và có bao nhiêu sự chia rẽ phát sinh từ con đường như vậy.
Chúng ta hãy khám phá năm điều Chúa Giêsu bộc lộ về con đường dẫn đến bình an. Chúa Giêsu đã nói, “Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14:27), và vì vậy những yếu tố này khác với những gì chúng ta học được trong khóa đào tạo về đối ngoại. Nhưng cũng giống như Ngài đã đảo ngược logic thế gian về mặt hạnh phúc trong bài giảng các mối phúc, Chúa Giêsu cũng làm như vậy về kế hoạch hòa bình của Ngài cho một thế giới đầy rẫy xung đột.
Đầu tiên là ưu tiên cho Thiên Chúa. Sau khi Chúa Gieêu mô tả rằng Ngài “đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10: 34), Ngài nói rõ, “Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10: 35-36). Điều này không có nghĩa Chúa Giêsu đến để chia rẽ: Ngài đến để tập họp muôn dân và cứu độ họ.
Nhưng không phải ai cũng chấp nhận lời đề nghị của Ngài. Có người chấp nhận, có người không. Đây là khởi đầu sự chia rẽ. Chúng ta thấy sự chia rẽ mà Ngài đã báo trước trong các gia đình, ví dụ, trong sự ganh ghét mà những người chồng cảm thấy khi vợ họ bắt đầu dành nhiều thời gian hơn với Chúa Giêsu trong lời cầu nguyện, hoặc những lời trêu chọc tàn bạo mà những thiếu niên sẽ nhận được khi họ thông báo với bạn bè của mình rằng họ nghĩ rằng Thiên Chúa có thể đang kêu gọi họ đến với chức linh mục hoặc đời sống thánh hiến. Những người không đặt Thiên Chúa lên hàng đầu thường sẽ không thích những ưu tiên mới. Đó là một thách thức gián tiếp đối với họ, và thường thì họ sẽ phản ứng giống cách hầu hết trẻ mẫu giáo làm với những vật nuôi của giáo viên, chỉ vì người khác tốt lành. Những người không muốn ưu tiên Thiên Chúa thường không khoan dung với những người làm như vậy.
Ở cấp độ vĩ mô, chúng ta thấy sự thiếu vắng bình an đến từ những người không muốn dành cho Thiên Chúa những gì Ngài đáng được hưởng. Các nhà sử học cho chúng ta biết rằng về mặt định lượng thế kỷ XX là thế kỷ bạo lực nhất trong lịch sử nhân loại, với số người bị hành quyết nhiều hơn tất cả các thế kỷ trước cộng lại. Chúng ta biết rằng cuộc tắm máu ghê tởm đó được thực hiện thả giàn không phải nhân danh tôn giáo, mà dưới ngọn cờ của nhiều chế độ thế tục, phản tôn giáo hoặc vô thần rõ ràng như chúng ta đã thấy dưới thời Stalin, Hitler, Ataturk, Pol Pot và những người khác. Nếu việc hiểu sai tôn giáo đôi khi dẫn đến bạo lực, thì việc ngăn chặn và đàn áp tôn giáo chỉ dựa trên lối nghĩ theo kinh nghiệm cá nhân thì còn tệ hơn. Trong khi tôn giáo không thành công trong việc kiềm chế khuynh hướng bạo lực của mọi tín hữu, thì việc không có tôn giáo - sống thực tế như thể Thiên Chúa không tồn tại - lại thành công ít hơn nhiều.
Ưu tiên Thiên Chúa không chỉ có nghĩa là thừa nhận sự hiện hữu của Ngài mà còn là cầu nguyện. Năm 2011, trong buổi canh thức trước lễ kỷ niệm 25 năm Ngày Liên tôn Cầu nguyện cho Hoà bình tại Assisi nổi tiếng do Đức Gioan Phaolô II khởi xướng, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã nói, “Sự đóng góp quý giá nhất mà chúng ta có thể làm cho sự nghiệp hòa bình là cầu nguyện.” Cầu nguyện giúp chúng ta trở nên giống Thiên Chúa hơn, Đấng mà chúng ta hướng đến. Cầu nguyện giúp chúng ta có khả năng hơn nhiều trong việc nhận ra rằng những người mà chúng ta có thể có xung đột không phải là kẻ thù mà là những người đồng loại được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương, để chúng ta sẽ đối xử với họ không giống như cách Cain đối xử với Abel mà giống như cách Giuse đối xử với những người anh em của mình ở Ai Cập.
Điều thứ hai Chúa Giêsu bộc lộ là mối liên hệ giữa bình an và việc tuân theo các điều răn của Ngài. Ngay trước khi Chúa Giêsu nói: “Ta để lại bình an cho các con. Ta ban cho các con sự bình an của Ta,” Ngài đã nói về việc tuân giữ lời và các điều răn của Ngài, trước khi nói thêm: “Nếu các con giữ các điều răn của Ta, các con sẽ ở lại trong tình yêu của Ta” (Ga 14:21; Ga 15:10). Chúng ta sẽ không bao giờ có bình an nếu không có tình yêu, và Chúa Giêsu tuyên bố rằng tất cả các điều răn đều dựa trên điều răn kép là yêu Chúa và yêu người lân cận (Mt 22:40). Chúng ta thấy mối liên hệ này rất dễ dàng trong thực tế. Sẽ có nhiều bình an hơn biết bao nếu mọi người chỉ cần tuân giữ Mười Điều Răn tối thiểu: sẽ không có giết người, hận thù, gia đình tan vỡ hoặc bị thương, trộm cắp, nói dối hoặc đố kỵ. Sẽ có sự tôn trọng giữa các thế hệ. Mọi người sẽ dành thời gian để đặt Thiên Chúa lên hàng đầu trong cuộc sống của họ, và để ngợi khen và thờ phượng Ngài. Đây là những nguyên tắc cơ bản để đạt được sự bình an mà thế gian không thể cho hoặc cướp mất.
Thực hành thứ ba là cầu mong bình an. Khi Chúa Giêsu sai 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ đi, Ngài đã bảo họ khi vào nhà nào đó hãy cầu mong bình an, hứa rằng nếu có người hiền hòa sống ở đó, bình an sẽ tồn tại (Mt 10:13; Lc 10:5). Lưu ý rằng Chúa Giêsu không nói, “Hãy điều tra xem trước tiên có người hiền hòa ở đó không”. Ngài muốn chúng ta cầu mong bình an cho mọi người, có suy nghĩ tích cực về những người chúng ta sẽ gặp. Đây là điều hoàn toàn trái ngược với sự nghi ngờ thường xảy ra giữa những người không biết nhau, hoặc những người đến từ những nơi khác nhau, dân tộc, chủng tộc, văn hóa hoặc tôn giáo. Trong khi Chúa Giêsu sai các môn đồ của mình đi như “những con chiên giữa bầy sói” (Lc 10, 1-9), Ngài đã sai chúng ta đi mà không hề hoang tưởng rằng mọi người đều là sói. Ngài muốn chúng ta thấy rằng điều tốt nhất là những người đó có thể nhận được bình an. Ngài muốn chúng ta trở thành khí cụ của bình an, gieo bình an để gặt bình an.
Nhưng Ngài muốn chúng ta phải hơn thế nữa, không chỉ là “những người mong muốn hòa bình”. Ngài kêu gọi chúng ta trở thành người xây dựng hòa bình: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình” (Mt 5:9), Ngài nói rằng những người xây dựng hòa bình sẽ được gọi là con cái đích thực của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng xây dựng hòa bình và chúng ta được kêu gọi trở thành những người con giống cha như tạc. Đây là thực hành thứ tư. Xây dựng hòa bình có nghĩa là gì? Chúa Giêsu mô tả nhiều điều kiện khác nhau. Điều đó có nghĩa là yêu thương kẻ thù của chúng ta, cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta, làm điều tốt cho những kẻ làm điều ác. Điều đó có nghĩa là đáp trả bằng vũ khí của tình yêu, lòng thương xót và sự tha thứ thay vì gươm giáo. Điều đó có nghĩa là học hỏi và noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã thiết lập hòa bình cuối cùng thông qua việc chết cho những người đang gây chiến với Ngài, với Thiên Chúa và với những người khác qua tội lỗi. Để trở thành người xây dựng hòa bình, chúng ta phải ngăn chặn vòng xoáy trả thù. Chúng ta không bao giờ được quên phẩm giá của mỗi người được Thiên Chúa yêu thương, ngay cả khi người kia quên. Chúng ta phải vượt qua sự ích kỷ, đố kỵ, kiêu ngạo, tức giận và lòng tham và kiên nhẫn xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ, đoàn kết và tình anh em, ngay cả khi những người khác chống đối. Chúng ta phải noi gương lòng thương xót bền bỉ của Thiên Chúa, tìm cách hòa giải tha thứ như chúng ta đã được hòa giải tha thứ bảy mươi lần bảy.
Điều này rõ ràng là khó. Một số người thậm chí còn nói rằng điều đó là không thể đối với con người. Điều đó đưa chúng ta đến với thực hành cuối cùng: Hợp tác với Chúa Thánh Thần. Vào đêm Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, Ngài đã bước qua cánh cửa đóng kín của Phòng Tiệc Ly và hai lần chúc các tông đồ đang sợ hãi “Shalom - Bình an cho anh em” (Ga 20: 21). Sau đó, Ngài tìm cách biến họ thành những người xây dựng hòa bình. Người thổi hơi Chúa Thánh Thần vào họ và nói: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:19-23). Chúa Giêsu đã sai họ đi với quyền năng của chính Thiên Chúa để tạo ra hòa bình thông qua sự tha thứ và hòa giải. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói trong một bài giảng cách đây vài năm rằng sự bình an mà Chúa Giêsu để lại, ban tặng và thổi vào về cơ bản là Chúa Thánh Thần. Khi Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta, Ngài giúp chúng ta trải nghiệm những gì Thánh Phaolô liệt kê là “hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gal 5: 22-23). Hoa trái đó không chỉ đơn thuần là chủ quan, thấm nhập chúng ta bằng những phẩm chất đó. Hoa trái đó tác động đến mối tương quan của chúng ta với người khác và giúp chúng ta ưu tiên Thiên Chúa, tuân giữ các điều răn của Ngài, mong muốn hòa bình cho mọi người và kiên trì tạo ra hòa bình.
Giữa quá nhiều xung đột, khi lưỡi gươm chia rẽ cắt sâu vào cá nhân, gia đình, xã hội và thế giới, kế hoạch hòa bình lâu đời của Chúa Giêsu cần thiết hơn bao giờ hết. Bây giờ là lúc để theo Ngài trên con đường hòa bình mà Ngài đã bộc lộ và lôi kéo những người khác cùng đi trên con đường đó.
Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em!
Tác giả: LM Roger J. Landry
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
+++++++++++++++
YÊU MẾN CHÚA GIÊSU VÀ TUÂN GIỮ LỜI NGÀI
Bài Tin Mừng hôm nay là một phần trong bài từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Ngài chịu khổ nạn. Đây là lời dạy về mối tương quan tình yêu dành cho Chúa, sự vâng phục Lời Ngài, vai trò của Chúa Thánh Thần, và ân huệ bình an mà Chúa Giêsu để lại cho những ai tin theo Ngài.
1. Tình yêu và sự vâng giữ Lời
Chúa Giêsu khẳng định: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14:23). Lời này nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa tình yêu và sự vâng giữ Lời Chúa. Yêu mến Chúa Giêsu không chỉ là cảm xúc, mà phải được thể hiện qua hành động cụ thể: tuân giữ lời của Ngài.
Thánh Augustinô đã giải thích về tình yêu này: “Tình yêu dành cho Chúa không nằm ở lời nói, mà ở hành động. Người yêu mến Chúa là người sống theo ý muốn của Ngài” (Bài giảng về Tin Mừng Gioan, 74.2). Thánh nhân nhắc nhở rằng tình yêu đích thực phải được chứng minh qua đời sống đức tin, như Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13: 34-35) và “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:10).
Chị Hiền, 45 tuổi, là một người Công giáo sống ở giáo xứ Thái Hà, trong một khu phố nhỏ ở Hà Nội. Hàng ngày, chị đẩy chiếc xe ba gác đi khắp các con hẻm để nhặt ve chai, kiếm tiền nuôi hai con ăn học. Dù cuộc sống khó khăn, chị luôn tham gia các hoạt động bác ái của giáo xứ và sẵn lòng giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình. Một lần, khi đang nhặt ve chai gần ga Hà Nội, chị Hiền thấy một ông lão ăn xin, khoảng 70 tuổi, nằm co ro trên vỉa hè, quần áo rách nát và run rẩy vì đói. Ông lão tên là Tâm, thường gọi là cụ Tâm, từng phục vụ trong quân đội nhưng gia đình mất hết trong chiến tranh và giờ sống lang thang.
Không do dự, chị Hiền lấy 40.000 đồng - gần nửa số tiền chị kiếm được hôm đó - để mua một hộp cơm và chai nước cho cụ Tâm. Chị còn lấy chiếc áo khoác cũ trong xe ba gác, vốn để dành cho con trai, đưa cho cụ để giữ ấm. Khi cụ Tâm cảm ơn, chị Hiền nói: “Con chẳng có gì nhiều, nhưng con học từ cha xứ rằng giúp người nghèo là giúp Chúa Giêsu. Cụ ăn cho khỏe, con cầu nguyện cho cụ.”
2. Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ và Thầy dạy
Chúa Giêsu hứa ban Đấng Bảo Trợ, tức Chúa Thánh Thần, để dạy dỗ và nhắc nhở các môn đệ: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26). Vai trò của Chúa Thánh Thần là tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu: “Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13).
Hội Thánh sơ khai ý thức rõ sự hướng dẫn của Thánh Thần khi giải quyết các tranh luận, từ đó đưa ra quyết định phù hợp với tinh thần của Chúa Giêsu: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết” (Cv 15: 28). Thánh Thần là Đấng bảo trợ và hướng dẫn Hội Thánh trong việc áp dụng Lời Chúa vào hoàn cảnh mới “là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa” (Cv 15: 19).
Thánh Basiliô Cả, nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần là “Đấng soi sáng tâm trí, ban sự khôn ngoan để hiểu biết các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (Thánh giáo phụ thế kỷ IV, nói về Chúa thánh Thần, 9.23). Nhờ Chúa Thánh Thần, các môn đệ không chỉ nhớ lại lời dạy của Chúa Giêsu mà còn được ban sức mạnh để sống và loan báo Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh.
Câu chuyện Chị Hiền kể trên không dừng lại ở chỗ chị cho cơm áo, tiền bạc, mà Chị còn liên lạc với nhóm thiện nguyện của giáo xứ Thái Hà, nhờ tìm chỗ ở tạm cho cụ Tâm. Nhờ sự hỗ trợ đó, cụ Tâm được đưa đến một mái ấm do giáo phận Hà Nội quản lý, nơi cụ được chăm sóc và sống những ngày tháng an ổn hơn. Dù nghèo, chị Hiền, đã nhìn thấy Chúa Giêsu nơi cụ Tâm, và nhờ Chúa Thánh Thần giúp sức, soi sáng, Chị đã trở thành chứng nhân của tình yêu thương không cần phải giàu có, chỉ cần một trái tim biết sẻ chia. (Công giáo và Dân tộc, số 245, tr. 15, 12/10/2023).
3. Bình an của Chúa Giêsu, ân huệ vượt trên thế gian
Chúa Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14:27). Bình an mà Chúa Giêsu ban tặng không phải là sự vắng bóng khó khăn, mà là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa những thử thách. Lời Ngài: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14: 27) khuyến khích các môn đệ tin tưởng vào sự chăm sóc của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu ban bình an “không theo kiểu thế gian” (Ga 14:27), với sự yên ổn tạm thời của thế gian, nhưng bắt nguồn từ mối tương quan sâu sắc với Thiên Chúa để các môn đệ không sợ hãi trước những thay đổi. Quyết định của Công đồng Giêrusalem giải tỏa căng thẳng giữa người Do Thái và dân ngoại, mang lại sự hiệp nhất và bình an cho Hội Thánh, “và làm cho họ được vững mạnh” (Cv 15:31). Đức Giáo hoàng Phanxicô giải thích: “Bình an của Chúa Giêsu là món quà nội tâm, giúp chúng ta đứng vững trước những giông tố của cuộc đời” (Bài giảng ngày 17/5/2020).
Năm 2021, trong đợt dịch COVID-19 bùng phát mạnh ở Sài Gòn, anh Phêrô Trần Văn Hùng, 40 tuổi, giáo xứ Tân Định, quận 3, Sài Gòn, chịu một cú sốc lớn khi mẹ anh, bà Anna, qua đời vì nhiễm virus. Do các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt, anh không thể ở bên mẹ trong những giờ phút cuối đời, và tang lễ chỉ được tổ chức đơn sơ với vài người thân. Nỗi đau mất mẹ, cộng với áp lực kinh tế khi công việc xe ôm gần như dừng hẳn, khiến anh Hùng rơi vào khủng hoảng. Anh chia sẻ trong một buổi sinh hoạt nhóm: “Tôi cảm thấy như Chúa đã bỏ rơi tôi. Tôi sợ không biết gia đình mình sẽ sống thế nào.”
Tuy nhiên, trong một buổi cầu nguyện trực tuyến do giáo xứ tổ chức, anh Hùng được nghe cha phó xứ giảng “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14: 27). Lời Chúa như một tia sáng soi chiếu tâm hồn anh. Anh bắt đầu dành thời gian cầu nguyện nhiều hơn, suy niệm về sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa những khó khăn. Anh nói với vợ: “Chúa không hứa cho ta cuộc sống dễ dàng, nhưng Ngài hứa ban bình an. Mình phải tin Ngài đang ở đây.”
Với niềm tin mới mẻ, anh Hùng tham gia nhóm thiện nguyện của giáo xứ Tân Định để phân phát thực phẩm cho những người bị giữ lại trong khu cách ly. Dù bản thân cũng thiếu thốn, nhưng anh cảm thấy lòng mình thanh thản hơn khi giúp đỡ người khác. Anh chia sẻ: “Khi tôi mang gạo đến cho những gia đình nghèo, tôi thấy như đang gặp Chúa. Bình an của Ngài giúp tôi vượt qua nỗi buồn và sợ hãi.”
Cộng đoàn giáo xứ, biết được hoàn cảnh của anh Hùng, đã hỗ trợ gia đình anh thực phẩm và một khoản tiền nhỏ để vượt qua giai đoạn khó khăn. Đến năm 2022, khi Sài Gòn dần hồi phục sau đại dịch, anh Hùng trở lại công việc và tiếp tục tham gia các hoạt động bác ái, như một cách tạ ơn Chúa vì bình an Ngài đã ban (Tạp chí Hiệp Thông, Tổng Giáo phận TP.HCM, số 131, tr. 22, tháng 3-4/2022).
Đó là sự bình an vượt trên xáo trộn mà Chúa Giêsu hứa, không còn “xao xuyến sợ hãi” (Ga 14: 27) như trong thành thánh Giêrusalem trên trời “không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:4).
Mọi xung khắc, tranh luận, như luật cắt bì, đều được giải quyết khi con người để Thánh Thần dẫn lối, hướng về Chúa Kitô, Đền Thờ Giêrusalem Thiên Quốc đích thực, là đích đến của mọi Kitô hữu, nơi mọi phân biệt xưa cũ bị tan biến trong ánh sáng vinh quang của Con Chiên.
Hôm nay, chúng ta hãy để Lời Chúa Giêsu vang vọng trong tâm hồn: yêu mến Ngài, giữ lời Ngài, và đón nhận Thánh Thần và bình an của Ngài. Chúa Kitô là Con Chiên, là nguồn sống và ánh sáng cho dân Ngài, phá vỡ mọi ranh giới bất hòa của luật lệ phàm nhân để mở ra một giao ước mới trong Thánh Thần, trong thành Giêrusalem mới, có “Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành” (Kh 21: 22).
Phêrô Phạm Văn Trung