Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI và Kinh Mân Côi - Nẻo đường theo Chúa Ki-tô
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Phạm Văn Trung
ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐÍCTÔ XVI VÀ KINH MÂN CÔI
Lễ Đức Mẹ Mân Côi được Thánh Giáo Hoàng Piô V thiết lập vào ngày kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Kitô giáo tại vịnh Lêpantô, ngày 7 tháng 10 năm 1571. Chiến thắng này được cho là nhờ sự cứu giúp của Mẹ Thánh của Thiên Chúa. Sự trợ giúp ấy là nhờ vào lời khẩn xin của Kinh Mân Côi.
Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI liên tục kêu gọi chú ý đến hiệu quả của Kinh Mân Côi.
- Trong bài huấn từ tại Vương cung thánh đường lịch sử Đức Bà Cả của Rôma, thứ Bảy, ngày 3 tháng 5 năm 2008, [1] ngài đã nhắc nhở các tín hữu rằng lời cầu nguyện này không phải là “một thực hành đạo đức bị đẩy lùi vào quá khứ, giống như những lời cầu nguyện của những thời đại khác mà người ta luyến tiếc khi nghĩ đến. Thay vào đó, Kinh Mân Côi đang có một Mùa xuân mới.”
Chắc chắn khi nhắc nhở các tín hữu như vậy, Đức Giáo Hoàng muốn xóa đi cách nghĩ không đúng rằng việc lần hạt Mân Côi là “lỗi thời” và là việc sùng kính của một số ông bà già “lẩm cẩm và cố chấp”.
Đức Giáo Hoàng tiếp tục nói rằng trong thế giới hiện tại, vốn rất phân tán, “lời cầu nguyện này giúp đặt Chúa Kitô vào trung tâm, giống như Đức Trinh Nữ đã làm, đã suy ngẫm về tất cả những điều được nói về Con của mình, cũng như những gì Ngài đã làm và nói.”
Khi chúng ta đọc kinh Mân Côi, chúng ta sống lại những khoảnh khắc quan trọng và có ý nghĩa trong lịch sử cứu độ của chính mình. “Những bước khác nhau trong sứ mệnh của Chúa Kitô được dõi theo. Cùng với Mẹ Maria, cõi lòng chúng ta hướng về mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Chúa Kitô được đặt vào trung tâm của cuộc sống chúng ta, của thời đại chúng ta, của thành phố chúng ta, thông qua việc chiêm ngưỡng và suy ngẫm về những mầu nhiệm thánh thiện của Ngài về niềm vui, ánh sáng, nỗi buồn và vinh quang.”
Ngài khuyến khích chúng ta đón nhận trong chính mình “ân sủng phát ra từ những mầu nhiệm này, để qua chúng ta có thể tưới mát cho xã hội, bắt đầu bằng các mối tương quan hàng ngày, và thanh lọc chúng khỏi nhiều thế lực tiêu cực, do đó mở chúng ra với sự mới mẻ của Thiên Chúa”.
“Kinh Mân Côi, khi được cầu nguyện một cách chân thành, không máy móc và hời hợt nhưng sâu sắc, thực sự mang lại hòa bình và hòa giải. Kinh Mân Côi chứa đựng trong chính mình sức mạnh chữa lành của Danh Thánh Chúa Giêsu, được cầu khẩn với đức tin và tình yêu ở trung tâm của mỗi Kinh Kính Mừng”.
- Chỉ hơn năm tháng sau đó, trong chuyến viếng thăm mục vụ tới Đền Thánh Pompeii vào Chúa Nhật 09 tháng 10 năm 2008 [2], trước khi đọc kinh Mân Côi, Đức Giáo Hoàng đã dành sự chú ý đến vị tông đồ vĩ đại của kinh Mân Côi, Chân phước Bartolo Longo, là người đã lấy hết năng lực và sự kiên trì của mình từ kinh Mân Côi, và kêu gọi các tín hữu noi gương thánh nhân.
“Tuy nhiên, để trở thành tông đồ của Kinh Mân Côi, cần phải đích thân trải nghiệm vẻ đẹp và chiều sâu của lời cầu nguyện đơn giản và dễ hiểu này đối với mọi người.”
Đức Giáo Hoàng muốn nói rằng mặc dù là lời cầu nguyện có vẻ nhiều lời, lặp đi lặp lại, quá đơn giản và có thể khiến nhàm chán, nhưng cũng giống như chúng ta không bao giờ mệt mỏi khi nói với ai đó rằng chúng ta yêu họ, thì “Kinh Mân Côi là trường học của sự chiêm nghiệm và thinh lặng. Thoạt nhìn, có vẻ như đây là một lời cầu nguyện tích tụ các từ ngữ, do đó khó có thể hòa giải với sự thinh lặng được khuyến khích đúng đắn cho việc suy ngẫm và chiêm nghiệm. Trên thực tế, sự lặp lại nhịp nhàng này của Kinh Kính Mừng không làm xáo trộn sự thinh lặng bên trong mà thực sự đòi hỏi và nuôi dưỡng sự thinh lặng đó.”
Đức Giáo Hoàng nói “sự thinh lặng xuất hiện qua các từ ngữ và câu văn, không phải là sự trống rỗng, mà đúng hơn là sự hiện diện của một ý nghĩa tối thượng vượt qua chính các từ ngữ và thông qua chúng nói với trái tim. Vì vậy, khi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta phải cẩn thận để giọng nói của mình không “che khuất” tiếng nói của Chúa, Đấng luôn nói qua sự thinh lặng như "tiếng nói nhỏ nhẹ" của một làn gió nhẹ (1V 19: 12)”.
Đức Giáo Hoàng khẳng định đọc Kinh Mân Côi là việc chiêm niệm phát xuất từ cõi lòng thinh lặng: “Vậy thì việc nuôi dưỡng sự thinh lặng tràn đầy Thiên Chúa này quan trọng biết bao, cả trong việc đọc kinh cá nhân và trong việc đọc kinh cùng với cộng đoàn! Ngay cả khi Kinh Mân Côi được đọc lên với tâm tình cầu nguyện, như ngày hôm nay, bởi các cộng đoàn đông đảo, và như anh chị em thực hiện trong Đền thánh này mỗi ngày, thì Kinh Mân Côi phải được coi là một lời cầu nguyện chiêm niệm. Và điều này không thể xảy ra nếu không có bầu không khí tĩnh lặng nội tâm”.
Đức Giáo Hoàng trích dẫn Chân phước Bartolo Longo, vị tông đồ của Kinh Mân Côi, giải thích Kinh Mân Côi là cách trò chuyện thân mật với Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria bằng cách suy ngẫm các mầu nhiệm thánh thiện của các Ngài: “Tôi muốn trích dẫn một suy nghĩ tuyệt đẹp của Chân phước Bartolo Longo: "Giống như hai người bạn thường xuyên ở bên nhau, có xu hướng phát triển những thói quen tương tự, cũng vậy, bằng cách trò chuyện thân mật với Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, bằng cách suy ngẫm về các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi và bằng cách sống cùng một cuộc sống trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta có thể trở nên giống như Chúa Giêsu và Mẹ Maria, trong phạm vi sự khiêm nhường của mình và có thể học từ những tấm gương tối cao này một cuộc sống khiêm nhường, nghèo khó, ẩn dật, kiên nhẫn và hoàn thiện”
3. Trong bài huấn từ trước khi đọc Kinh Truyền Tin vào Chúa Nhật 03 tháng 10 năm 2010, khi đi thăm mục vụ Palermo [3] chỉ vài ngày trước lễ Mân Côi, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã khuyên các tín hữu cầu nguyện bằng kinh Mân Côi hằng ngày và dùng kinh này để suy ngẫm về những mầu nhiệm của Chúa Kitô “Vào thời điểm hiệp thông sâu sắc này với Chúa Kitô, hiện diện và sống động giữa chúng ta và trong chúng ta, như một gia đình giáo hội, thật tuyệt vời khi hướng về lời cầu nguyện với Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ của Ngài và của chúng ta.”
Trong bài huấn từ này, Đức Thánh Cha đã giao phó toàn thể dân Chúa cho Mẹ chăm sóc và khẩn cầu: “Xin Mẹ nâng đỡ các gia đình, trong tình yêu thương của họ và trong sự đoan hứa dậy dỗ con cái của họ; xin Mẹ làm trổ sinh hoa trái những hạt giống ơn gọi mà Thiên Chúa đã gieo vãi dồi dào nơi những con trẻ; xin Mẹ truyền sự can đảm trong thử thách, hy vọng trong khó khăn, và nhiệt huyết mới trong việc làm điều thiện. Xin Đức Mẹ an ủi những người bệnh tật và tất cả những người đau khổ, và giúp đỡ các cộng đồng Kitô giáo để không ai trong số họ bị gạt ra ngoài lề hoặc bị thiếu thốn, nhưng mỗi người, đặc biệt là những người nhỏ bé và yếu đuối, đều cảm thấy được chào đón và trân trọng.”
Đức Thánh Cha đã gọi Đức Maria là: “Mẫu gương của đời sống Kitô hữu” và cầu xin Mẹ trước hết “giúp tất cả anh chị em bước đi trên con đường thánh thiện, nhanh nhẹn và vui tươi, theo những bước chân của rất nhiều chứng nhân sáng ngời của Chúa Kitô.”
Đức Thánh Cha kết thúc bằng lời mong ước: “Xin cho việc suy niệm hằng ngày về các mầu nhiệm của Chúa Kitô kết hợp với Đức Maria, Đức Trinh Nữ cầu nguyện, củng cố tất cả chúng ta trong đức tin, đức cậy và đức mến”.
Phêrô Phạm Văn Trung
************
NẺO ĐƯỜNG THEO CHÚA KITÔ
Chúng ta tuân giữ các giới răn mà Tin Mừng khuyên tuân giữ để trở nên “Kitô hữu tốt lành”. Rồi đôi khi giống như người giàu có trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy mình tương đối hài lòng về chính mình. Chúng ta tin rằng chúng ta đã đạt đến một mức độ hoàn hảo nhất định, bởi vì chúng ta đã tuân giữ lề luật của Thiên Chúa và Hội Thánh khá trọn vẹn... nhất là khi so sánh với bao người khác còn “bê tha lỗi tội nặng nể”.
1. Đến và theo Chúa Giêsu: chuẩn mực để có được sự sống đời đời
Người giàu có đến thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Có lẽ ông ta nghĩ rằng mình có điều gì đó tốt lành ông ta đã làm được khiến ông ta xứng đáng được hưởng cuộc sống vĩnh cửu. Não trạng này là điều hoàn toàn có thể xảy ra nơi dân Do thái thời Chúa Giêsu khi mọi thứ trong đời sống đều được đánh giá theo mức độ tuân giữ lề luật Môsê, nhiều khi đến mức chi li, ngặt nghèo. Vì thế điều trước tiên Chúa Giêsu làm là đặt ra một câu hỏi: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc10:18). Qua đó Chúa Giêsu xác định chuẩn mực của sự nhân lành: chỉ một mình Thiên Chúa là nhân lành.
Việc tuân giữ các điều răn, trọn vẹn bao nhiêu có thể, giúp con người sống tốt lành ở trần gian. Chúa Giêsu không phủ nhận giá trị của các giới răn đó. Chính Ngài kể ra các giới răn mà người ta, bất kể ở nơi nào và thời đại nào, chủng tộc, văn hóa, xã hội, hệ thống pháp luật nào, đều cần phải thực hiện nơi trần thế này: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ” (Mc 10:19) và Ngài hỏi người giàu có: “Hẳn anh biết các điều răn đó” (Mc 10:19). Người ấy trả lời: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ” (Mc 10:20). Vấn đề là ông ta không chỉ muốn những phúc lành mà việc tuân giữ các lề luật đem đến cho ông ta trên trần gian mà còn cả cuộc sống vĩnh cửu. Một mức độ hoàn toàn khác, đúng hơn đó là một cảnh giới khác biệt “một trời một vực”. Mặc dù ông ta không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, nhưng những điều này không thể mang lại cho ông ta phúc lành đời đời. Chỉ có một con đường mà Chúa Giêsu đã đến thế gian này để mở ra. Cần phải theo Ngài đi vào con đường ấy với tấm lòng xa khỏi những dính mắc trần gian. Vì vậy, Chúa Giêsu trả lời anh: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10:21).
Câu nói của Chúa Giêsu chứa đựng những động từ: “đi, bán, đến và theo”. Chính mối tương quan gắn kết “đến và theo” Chúa Giêsu mới là chuẩn mực để có được “sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Chính Chúa Giêsu lên tiếng mời gọi người giàu có khi xưa, và chúng ta ngày nay, đi vào trong tương quan gắn kết đó, bất kể chúng ta đã tuân giữ lề luật đến mức độ nào.
“Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10:22). Biết bao nhiêu người như anh ấy! Dù họ biết rằng còn thiếu điều gì đó để hạnh phúc vẹn tròn khi nghĩ về tương lai; nhưng họ vẫn muốn bám giữ vào của cải đời này, không từ bỏ bất cứ điều gì, đặc biệt là không “đến và theo” Chúa Kitô. Họ thấy rằng Chúa không có sức hấp dẫn đối với lòng họ. Những trò vui trần thế còn nhiều và chẳng tội gì hy sinh thực tế hiện tại này cho một tương lai không chắc chắn, chưa tới. Cuộc sống của chúng ta cũng vậy, nhiều vất vả, khốn đốn, mới tạo ra được của cải hiện tại, không thể bỏ đi mà không ảnh hưởng tới những ngày sắp tới “biết ra sao ngày mai”. Tuy nhiên, nếu chúng ta cứ đi theo con đường này thì rốt cuộc, sớm muộn, chúng ta sẽ phải mất tất cả, chịu bất hạnh vĩnh viễn: “Thiên Chúa bảo ông ta: Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12:20-21). Khi “đến và theo Chúa”, sử dụng của cải đời này vì lợi ích xác hồn của những người nghèo, những người thiếu thốn vật chất, tinh thần chung quanh mình, chúng ta không đánh mất của cải đó; trái lại, chúng được biến đổi thành những phúc lành trên trời và vĩnh cửu: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu… Vậy hãy lo tìm Nước của Ngải, còn các thứ kia, Ngài sẽ thêm cho… Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá” (Lc 12: 15, 30, 33).
2. Của cải trần gian và sự sống đời đời
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10: 23). Câu nói này khiến các môn đệ sững sờ (Mc 10:24) vì trong Cựu Ước, giàu sang phú quý được coi là phần phúc lộc của Thiên Chúa, và sự giàu sang ấy là ngay chính: “Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc. Gia đình họ phú quý giàu sang, đức công chính của họ tồn tại muôn đời” (Tv 112: 2-3). Giàu sang như ông Abraham (St 13) hay ông Gióp (1-2;42,10-15) là phúc lành của Thiên Chúa. Nhưng với Chúa Giêsu, Đấng khai mở Tân Ước, không dừng lại trước sự ngạc nhiên lớn lao của các môn đệ, Ngài nhấn mạnh thêm nữa: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10: 25), trong đó “phúc lành” không còn là một vùng đất hay của cải trần gian nhưng là Thiên Chúa, sự sống đời đời. Ở đây một lần nữa, các môn đệ không đi vào suy nghĩ của Chúa Giêsu. Họ ngạc nhiên và nói: “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10:26). Trong sự cai quản của Thiên Chúa, của cải trần gian thuộc về tất cả mọi người, là “của đồng lần thiên hạ tiêu chung”, nhưng Thiên Chúa giao cho những người giàu “quản lý” không phải để họ tiêu xài, thỏa mãn những ham muốn của riêng mình, nhưng phải phân phối lại cho những người khác. Thiên Chúa ban phúc cho họ: “Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn, biết theo lẽ phải mà thu xếp công việc mình… Kẻ túng nghèo, họ rộng tay làm phúc” là để “đức công chính của họ tồn tại muôn đời, uy thế họ vươn cao rực rỡ” (Tv 112:5-9). Nhưng người ta ngày nay, giống như các môn đệ ngày xưa, vẫn hiểu rằng những của cải trần thế này không liên quan gì đến sự sống vĩnh cửu, vì những của cải ấy chỉ có thể được hưởng thụ ở dưới trần gian này mà thôi. Thậm chí chúng ta tin rằng những người giàu có, dường như là đối tượng được Chúa ưu ái, có đủ điều kiện làm những việc lành để vào Nước Chúa dễ dàng hơn. Chúng ta xem xét mọi việc theo công trạng của con người chứ không theo quan điểm ân sủng của Thiên Chúa. Sự thật là những của cải này có ma lực nắm giữ trái tim và gắn chặt lòng dạ con người vào trần gian, tạo ra một trở ngại to lớn ngăn cản người ta từ bỏ mọi thứ để chiếm lấy một kho báu thiêng liêng và vĩnh cửu, có thật, dù tạm thời còn mờ nhạt: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt” (1 Cor 13:12). Kho báu ấy đang ẩn giấu trong một Chúa Kitô “sống vô gia cư chết vô địa táng”, không có chỗ tựa đầu (Lc 9:58), trong một thế giới mà con người duy vật coi của cải vật chất là giá trị tuyệt đối. Trong thế giới đó, những người nghèo, hầu như không có gì để hưởng thụ, bị coi khinh, bỏ rơi, lãng quên, lại dễ dàng mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4:18).
3. Sức mạnh của Thiên Chúa nâng đỡ sự yếu đuối của chúng ta
Khi các môn đệ hỏi: “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10: 26). Chúa Giêsu trả lời: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10:27). Thiên Chúa có thể làm mọi sự, và Ngài đã làm mọi sự cần thiết để những người lạc lối, hư hỏng, đáng thương, không có khả năng làm gì, có thể tìm thấy một ơn cứu độ hoàn hảo mà Ngài ban tặng miễn phí cho bất cứ ai chấp nhận nhờ đức tin vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn con người bằng con mắt khác hơn là con mắt của quan tòa xử án theo luật: “Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến” (Mc 10:21). Chúa Giêsu nhìn chúng ta trước và Ngài yêu thương chúng ta không vì bất cứ công trạng nào của chúng ta!
Mọi sự bắt đầu từ ánh nhìn yêu thương của Chúa Giêsu. Chính vì Ngài yêu thương con người vô điều kiện, nên Ngài tin tưởng khích lệ người giàu có, cũng là khích lệ chúng ta: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10:21). Mục đích của việc “đi và bán những gì anh có mà cho người nghèo” chính là “đến và theo tôi” Thực tế, người giàu có đã đến với Chúa Giêsu rồi, nhưng có điều ông ta đến nhưng chưa theo Chúa. Lối sống của người giàu có này có vẻ rất đáng kể. Chính ông ta chủ động đến với Chúa Giêsu, hỏi một câu hỏi nghiêm túc và quan trọng nhất trong đời người: làm gì để được sự sống đời đời. Câu hỏi của ông rất thực tế: nên làm gì? Ông dường như sẵn lòng làm theo những gì Chúa Giêsu Kitô bảo để đạt được sự sống đời đời. Chúa Giêsu ban cho ông một món quà. Ngài yêu cầu ông ta đi theo Ngài, giống như Ngài đã từng nói với các tông đồ: “Các anh hãy theo tôi” (Mc 1:16-20). Chúa Giêsu yêu mến những người có thiện chí. Ngài cho chúng ta biết điều kiện cần thiết để được sự sống đời đời: từ bỏ mọi sự để hiến thân hoàn toàn cho Ngài. Đề nghị của Chúa Giêsu dường như đảo ngược mọi nỗ lực của chúng ta. Sự sống đời đời không phải là kết quả của mọi dự tính hay cố gắng trở nên hoàn thiện của chúng ta, mà từ ân huệ tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chính khi coi mọi sự trần gian là không đáng kể và bước theo Chúa Giêsu mà chúng ta nhận được sức mạnh để bắt đầu chu toàn lề luật và thậm chí hơn cả lề luật, để sống trong Thánh Thần. Chúng ta hãy để cho mình được cái nhìn yêu mến của Ngài đánh động và đáp lại lòng yêu mến đó.
Đôi khi chúng ta quá bận tâm đến công ăn việc làm kiếm tìm tiền của vật chất đến nỗi không thể dành một chút thời gian để cầu nguyện, dạy giáo lý, thăm nom phục vụ những người cơ nhỡ chung quanh mình. Mỗi chúng ta đều có một hình thức gắn bó nào đó với mọi thứ trên trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta đừng để của cải trần gian lấp đầy tâm hồn chúng ta: “Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được” (1Tm 6:7), nhưng chính Chúa Giêsu Kitô mới là “nguồn giàu sang phú quí” (2 Cor 8:9) đích thực của chúng ta. Chọn Ngài là chọn mọi sự như Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1Tm 6:17-19).
Phêrô Phạm Văn Trung.