Hạnh Các Thánh: 1-5 tháng 1
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Trầm Thiên Thu
1/1 – Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa
Thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa mở rộng điểm nổi bật của lễ Giáng sinh. Đức Maria có vai trò quan trọng trong Mầu nhiệm Nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Mẹ chấp nhận lời mời gọi của sứ thần (x. Lc 1:26-38). Thánh Elidabét tuyên xưng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:42-43). Vai trò là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã đặt Mẽ vào vị trí độc nhất trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Không nói rõ tên Maria, nhưng thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-5). Điều đó giúp chúng ta nhận ra Đức Maria là Mẹ của mọi anh chị em của Chúa Giêsu – tức là chúng ta.
Một số thần học gia cho rằng cương vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria là yếu tố quan trọng trong công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Ý nghĩ “đầu tiên” của Thiên Chúa trong việc sáng tạo là Đức Giêsu. Đức Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể, là Đấng có thể yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa một cách hoàn hảo thay cho mọi thụ tạo. Chúa Giêsu là “người đầu tiên” trong ý nghĩ của Thiên Chúa, Đức Mẹ là “người thứ nhì” được tuyển chọn từ đời đời để làm Mẹ của Ngài.
Danh xưng “Mẹ Thiên Chúa” xuất hiện từ thế kỷ III hoặc IV. Theo tiếng Hy Lạp Theotokos (người mang Thiên Chúa), trở nên tiêu chuẩn (touchstone) của giáo huấn Giáo hội về Mầu nhiệm Nhập thể. The Công đồng Êphêsô năm 431 nói rằng các thánh giáo phụ đã đúng khi tôn xưng Đức Mẹ là Theotokos. Khi bế mạc công đồng này, nhiều người đã diễu hành và hô to: “Tôn vinh Đấng Theotokos!”. Truyền thống đó còn tới ngày nay. Trong chương nói về vai trò của Đức Maria trong Giáo hội, Dogmatic Constitution on the Church (Hiến chế về Giáo hội), Công đồng Vatican II đã tôn xưng Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” 12 lần.
2/1 – Thánh Basiliô Cả, Giám mục (329-379)
Ngài là thầy dạy nổi tiếng khi quyết định sống đời tu theo tinh thần nghèo khó Phúc âm. Sau khi nghiên cứu nhiều cách tu, ngài phát hiện điều mà có thể là tu viện đầu tiên ở Tiểu Á. Ngài là tu sĩ của Đông phương, thánh Bênêđictô là tu sĩ của Tây phương, và tu luật của ngài ảnh hưởng đời đan tu Tây phương ngày nay.
Ngài thụ phong linh mục, giúp Đức TGM ở Caesarea (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), và rồi chính ngài được bổ nhiệm TGM, dù bị chống đối từ một số giám mục phó, có thể do họ đoán trước có sự cải cách.
Một trong các tà thuyết làm tổn hại Giáo hội là Arian (*). Hoàng đế Valens đã bách hại các tín đồ Chính thống giáo, gây áp lực với thánh Basiliô phải im lặng và chấp nhận cho những người theo tà thuyết được hiệp thông. Ngài cương quyết từ chối, Valens thoái lui. Nhưng rắc rối vẫn còn. Khi thánh Athanasiô qua đời, thánh Basiliô phải đảm trách việc chống lại tà thuyết Arian. Ngài bị hiểu lầm, bị xuyên tạc, bị kết tội theo tà thuýet và tham vọng. Khi được triệu hồi để gặp ĐGH, ngài không biện hộ mà chỉ nói: “Tội của con là có vẻ đã không thành công trong mọi việc”.
Ngài không biết mệt mỏi trong việc mục vụ. Mỗi ngày ngài giảng 2 lần trước rất nhiều người, xây dựng bệnh viện được gọi là kỳ công thế giới (khi giới trẻ tổ chức cứu trợ) và chống mại dâm.
Ngài là nhà hùng biện. Các bài viết của ngài, dù không được chấp nhận khi ngài sinh thời, nhưng sau được coi là những giáo huấn tuyệt vời của Giáo hội. Sau khi ngài qua đời được 72 năm, Công đồng Chalcedon tôn vinh ngài là “Thánh Basiliô Cả”, là “thừa tác viên của ân sủng đã giải thích chân lý cho toàn thế giới”.
----------------------------------
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
3/1 – Kính Thánh Danh Chúa Giêsu
Chữ IHS được viết tắt từ chữ Jesous, tên bằng tiếng Hy Lạp dành cho Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa” (x. Pl 2:9-11). Lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu phổ biến trong các đan viện Xitô (Cistercians) từ thế kỷ XII, nhất là qua giáo huấn của thánh Bernardine Siena, tu sĩ Dòng Phanxicô hồi thế kỷ XV.
Thánh Bernardine dùng lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu là cách vượt qua những cuộc chiến gian lao và thường đổ máu, chống lại sự kình địch gia đình hoặc mối thù truyền kiếp (vendettas) ở Ý. Lòng sùng kính này phát triển, một phần do các tu sĩ Dòng Phanxicô và Đa Minh, thậm chí phát triển rộng rãi hơn sau khi các tu sĩ Dòng Tên bắt đầu truyền bá từ thế kỷ XVI.
Năm 1530, ĐGH Clementô V phê chuẩn Lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu cho các tu sĩ Dòng Phanxicô. Năm 1721, ĐGH Innocent XIII mở rộng lễ này cho Giáo hội toàn cầu.
4/1 – Thánh Elizabeth Ann Seton (1774-1821)
Bà là một trong các nhân vật chính của Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ. Bà thành lập Dòng Nữ tử Bác ái (Sisters of Charity), dòng nữ đầu tiên của Mỹ. Bà còn mở một trường Công giáo Hoa Kỳ đầu tiên và thành lập Viện Mồ côi Công giáo Hoa Kỳ đầu tiên. Đó là những việc bà làm trong cuộc đời chỉ 46 năm trong khi phải nuôi dạy 5 đứa con.
Bà sinh ngày 28-8-1774, chỉ 2 ngày trước ngày tuyên bố bản Tuyên ngôn Độc lập. Bà được giáo dục bởi người mẹ ruột và mẹ kế đều theo Giáo hội Tân giáo (Episcopalian), bà học được giá trĩ của sự cầu nguyện, Kinh thánh và xét mình mỗi đêm. Người cha là bác sĩ Richard Bayley, ông không quan tâm việc đến nhà thờ nhưng ông sống rất nhân bản, ông dạy con gái mình sống yêu thương và phục vụ người khác.
Người mẹ qua đời sớm vào năm 1777, cái chết của em gái bà năm 1778 đã cho bà cảm giác về sự vĩnh hằng và sự tạm bợ của đời sống trần gian. Lúc 19 tuổi, Elizabeth là hoa khôi của TP New York và kết hôn với một thương gia giàu có và điển trai là William Magee Seton. Người chồng qua đời vì bệnh lao phổi. Elizabeth trở thành góa phụ khi mới 30 tuổi, nghèo kiết xác mà phải một mình nuôi 5 con.
Có 3 điểm cơ bản khiến bà theo Công giáo: Tin vào sự hiện hữu thật của Thiên Chúa, sùng kính Mẹ Maria và tin rằng người Công giáo được gặp lại Đức Kitô. Nhiều người phản đối bà khi bà theo Công giáo hồi tháng 3-1805.
Để kiếm tiền nuôi con, bà mở trường học ở Baltimore. Từ đầu, nhóm của bà theo luật dòng tu, chính thức khai giảng năm 1809. Cả ngàn lá thư của bà cho biết việc phát triển đời sống tâm linh từ những điều tốt hàng ngày tới sự thánh thiện anh dũng. Bà chịu bệnh tật, bị hiểu lầm, mất người thân (chồng và 2 con gái), và khổ sở vì cậu con trai ngỗ nghịch. Bà qua đời ngày 4-1-1821, được an táng tại Emmitsburg, Maryland. Bà là người Mỹ đầu tiên được phong chân phước (năm 1963) và được phong thánh (năm 1975).
5/1 – Thánh John Neumann, Giám mục (1811-1860)
Thánh John Neumann sinh ở nơi mà nay là Cộng hòa Séc. Sau khi học ở thủ đô Prague, ngài đến New York lúc 25 tuổi và được thụ phong linh mục. Ngài truyền giáo ở New York tới lúc 29 tuổi, ngài vào Dòng Chúa Cứu Thế, trở nên thành viên đầu tiên tuyên khấn tại Hoa Kỳ. Ngài tiếp tục truyền giáo ở Maryland, Virginia và Ohio, và trở nnê nổi tiếng đối với người Đức.
Lúc 41 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm giám mục GP Philadelphia. Ngài tổ chức hệ thống trường của các giáo xứ vào hệ thống giáo phận, tăng số học sinh gần gấp 20 lần chỉ trong thời gian ngắn.
Ngài có biệt tài về tổ chức, ngài thu hút nhiều dòng tu nam nữ chuyên về giáo dục. Ngài có tiếng thánh thiện và giỏi, có những bài viết và bài giảng tâm linh hay. Ngày 13-10-1963, ngài là giám mục Mỹ đầu tiên được phong thánh. Ngài được phong thánh năm 1977. Thi hài ngài được an táng tại Nhà thờ Thánh Phêrô Tông đồ ở Philadelphia.
Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
---------------------------------------