Nếu chết là hết - Sự thật là gì ?
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Nguyễn Văn Nghĩa
NẾU CHẾT LÀ HẾT
(Thứ Bảy sau Chúa Nhật XXXIII TN – Lc 20,27-40)
Khi đặt ra cho Chúa Giêsu một tình huống dù là hợp luật nhưng dường như là không thể có trong hiện thựcđó là bảy anh em trai cùng lần lượt cưới lấy một cô làm vợ sau khi người anh cả qua đời, nhóm người phái Sađốc muốn biện mình cho chủ trương của họ là không có sự sống lại và dĩ nhiên không có sự sống đời sau, sự sống trường sinh. Cuộc đời con người chấm dứt với cái chết thể lý ư? Hầu như ít có ai khẳng định điều này, dù rằng vẫn có đó nhiều người vẫn dùng nó như là một lối biện bạch cho cung cách sống của mình, một lối sống quá bám víu vào những thiện hảo đời này.
Hiện tượng này đã được tác giả sách Khôn ngoan trình bày cách cụ thể trong suốt cả chương 2. Theo tác giả thì những kẻ gian ác cho rằng cuộc đời này chỉ là thoáng qua. Do bởi ngẫu nhiên mà chúng ta có mặt ở đời này và rồi có ngày sẽ trở về cát bụi như chưa từng hiện hữu. Chết là hết, vậy hãy tìm đủ cách để tận hưởng mọi lạc thú trần đời, bất chấp đạo lý công bình hay tình yêu, chỉ có mạnh được, yếu thua: “Ta hãy bức hiếp tên công chính nghèo hèn, kẻ góa bụa, ta đừng buông tha, bọn tóc bạc già nua cũng chẳng nể. Sức mạnh ta phải là quy luật của công lý, vì yếu đuối chẳng làm nên chuyện gì” (Kn 2,10-11).
Trước lối sống vô luân ác độc kiểu này thì tác giả sách Khôn ngoan đã trả lời cách thẳng thừng: “Chúng suy tính như vậy thật sai lầm, vì ác độc mà chúng ra mù quáng…Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (Kn 2,21-23). Nhóm Sađốc thời Chúa Giêsu dù không thể xét đoán là ác độc, nhưng họ quá dính bén với các thiện hảo đời này là quyền chức, của cải, danh vọng nên họ dễ sai lầm vì mù quáng. Sử sách ghi rằng họ là nhóm người tư tế vai cao, vị trọng lại liên kết với giới cầm quyền Rôma đang đô hộ nước nhà Do Thái của họ, dĩ nhiên là để hưởng nhiều lợi lộc.
Nỗ lực minh chứng rằng có sự sống đời sau, có sự sống đời đời thì quả thật không mấy dễ. Cố công tìm kiếm những dữ liệu cách minh nhiên thì dường như là không thể vì cần phải có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn người từ cõi chết sống lại làm chứng thì mới khả tín. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy được nhiều bằng chứng cách mặc nhiên để rồi thêm xác tín rằng có sự sống trường sinh, có sự sống đời sau.
Đã là người thì dù có khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ hay sắc tộc thì xưa lẫn nay đều có khát mong được hạnh phúc và khao khát được “trường sinh bất tử”. Và nhân loại mọi thời, mọi nơi đều chân nhận rằng nỗi khát mong này không thể nào đạt thỏa trong cuộc sống dương trần này. Chính vì thế hình thành niềm tin vào sự sống phía sau cánh cửa sự chết. Niềm tin này bàng bạc qua việc cung kính thi hài người quá cố trong nghi tức tẩn liệm, chôn cất. Đây là một trong những tiêu chí mà các nhà khảo cổ học dựa vào để xác định đâu là những bộ xương hóa thạch được xem là xứng với phẩm giá loài người (homo sapiens – người tinh khôn).
Niềm tin vào sự sống lại, sự sống trường sinh đã dần hình thành trong Do Thái giáo khoảng vài ba thế kỷ trước Công Nguyên. Ngôn sứ Êdêkien trong một thị kiến đã thấy các bộ xương khô được đắp da thịt lại và sống lại (Ed 27). Thị kiến này không chỉ nói lên niềm tin vào sự phục hưng của Israel mà là một mạc khải hé mở về sự sống lại. Lời ngôn sứ Đaniel: “trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy, người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục mà bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn, 12, 2-3). Đến thời Macabêô thì niềm tin vào sự sống lại, vào sự sống đời sau càng rõ nét hơn qua câu chuyện người mẹ và bảy người con chịu tử đạo và chuyện ông Giuđa quyên góp tiền gửi về Giêrusalem xin lễ cầu nguyện cho người đã qua đời. (x.2Mcb 7; 2Mcb 12,38-45). Sách thánh ghi: “Thật thế, nếu ông (Giuđa) không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì việc cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn” (2Mcb 12,44). Một bằng chứng khá hiển nhiên đó là hầu hết tín hữu các tôn giáo và ngay cả người tự xưng là “vô thần” cũng thường cầu nguyện cho người đã qua đời.
“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20,38). Kitô hữu chúng ta tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại, sự sống đời đời,vì Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định chân lý đức tin này. Thử hỏi nếu loài người cho rằng chết là hết thì thế gian này sẽ ra sao? Biết bao sự hỗn độn sẽ xảy ra và hậu quả thật khó lường. Xin đừng quá lo lắng vì vẫn có đó một số người sống mà quên nghĩ đến đời sau. Điều đáng băn khoăn hơn đó là những người đang tuyên xưng rằng có sự sống đời đời mà lại sống như chỉ có đời này. Quá lo lắng cho sức khỏe của riêng mình, quá thủ thân, an phận trong hoàn cảnh dịch bệnh… có thể là một kiểu sống phản chứng với lời tuyên tín: Tôi tin có sự sống đời đời.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
*******
SỰ THẬT LÀ GÌ?
(Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ - Năm B – Đn 7,13-14; Kh 1,5-8; Ga 18,33b-37)
Khi tổ chức, hay tiến hành một chương trình, một lễ hội, một cuộc thi đấu…thì dù rằng “vạn sự khởi đầu nan”, nhưng cái bầu khí của “buổi ban đầu” lại thường khá long trọng và hoành tráng. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng điểm kết thúc mới có tính quyết định. Vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ, khi Giáo Hội suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, thì cũng một cách nào đó muốn nhắn nhủ với con người cách chung và với Kitô hữu cách riêng về ý nghĩa đời người. Tính quyết định của hạnh phúc con người có mối liên hệ tất yếu với nội hàm chân lý Chúa Kitô là Vua vũ trụ.
Khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rõ ràng: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”, Philatô đã hỏi lại: “Sự thật là gì?” (x.Ga 18,37-38). Tin mừng không tường thuật câu trả lời của Chúa Giêsu mà ngưng ở đó để rồi kẻ tiếp chuyện Philatô lại ra gặp người Do Thái.
Sự thật là gì? Mặc dù có nhiều cái nhìn, nhiều quan niệm khác nhau về sự thật nhưng vẫn có nét tương đồng căn bản. Sự thật là sự tương hợp hay sự đồng nhất giữa nội dung với hình thức, giữa cái bên trong và cái bên ngoài, chẳng hạn như chất lượng sản phẩm hàng hóa đúng với những gì ghi ngoài nhãn hiệu, bao bì…Trên bình diện hữu thể thì có người cho rằng sự thật là sự đồng nhất giữa thực tại với cái biểu hiện. Cũng có người quan niệm sự thật là sự duy nhất, bất biến và thường tồn của thực tại.
1. Sự thật về Đức Kitô:
Theo viễn kiến này thì duy chỉ có Thiên Chúa là sự thật đúng nghĩa. Người không chỉ là “Đấng có sao, có vậy” (x.Xh 3,14) mà người còn là Đấng là An-Pha và Omêga nghĩa là có từ nguyên thủy và tồn tại đến vạn đại thiên thu (x.Kh 1,8). Chính Chúa Kitô đã từng khẳng định Người là sự thật (x.Ga 14,6). Người là Đấng có sao, có vậy, là nguyên thủy và là cùng đích (x.Ga 8,24; 27; 57). Như thế khi nói với Philatô rằng mình đến thế gian là để làm chứng cho sự thật thì Chúa Kitô muốn minh chứng rằng chính Người là căn nguyên và cùng đích của mọi hiện hữu.
Cũng như vạn vật, con người tôi bởi đâu mà ra và rồi sẽ đi về đâu, một câu hỏi đã trở thành vấn nạn khó giải cho nhiều học giả, nhiều triết gia…mọi thời, nay đã có câu trả lời. Các hiện hữu ở đời này, sự hiện hữu của tôi trong cõi đời này có nguồn gốc và đích đến là chính Chúa Kitô. Trong thân phận một công dân, thì “quê hương mỗi người chỉ một, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nỗi thành người” (Đỗ Trung Quân). Cũng thế và hơn thế nữa, trong thân phận con người, tôi chỉ thực sự là tôi khi ở trong tương quan với Chúa Kitô. Đúng hơn, sự hiện hữu của tôi, sự sống còn của tôi, ý nghĩa cuộc đời của tôi lệ thuộc vào Đức Kitô. Đây chính là một nội hàm của chân lý Chúa Kitô là Vua vũ trụ mà Giáo Hội long trọng tuyên xưng vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Tuyên xưng Chúa Kitô là vua có nghĩa là tuyên xưng sự lệ thuộc, sự suy phục của mình vào Chúa Kitô. Vì tất cả mọi loài mọi vật “đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người” (Col 1,16).
2. Sự thật về con người:
Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x.St 1,27), con người cũng là sự thật khi nên một với Chúa Kitô. Đấng là hình ảnh Thiên Chúa vô hình đã tự xưng là Con Người. Thánh Tông đồ dân ngoại đã mạnh mẽ khằng định chân lý này: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng duới đất hữu hình với vô hình” (Col 1,15). Vì là sự thật nên con người phải được yêu quý và tôn trọng cũng như bảo vệ. Dù là một bệnh nhân, dù là một người nghèo khổ, một người thấp cổ, bé phận, dù là một bào thai dị tật… tất thảy đều đáng phải được kính trọng, yêu mến và bảo vệ hơn tất cả những thể chế, luật lệ, nghi thức hay truyền thống… Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này khi nhấn mạnh: “Ngày Sabat có ra là vì con người, chứ không phải con người có ra là vì ngày Sabat” (Mc 2,27).
Là loài thọ tạo có vẻ mỏng manh và đầy yếu đuối nhưng con người lại được Thiên Chúa đặt lên làm chủ tể mọi loài trên trời dưới đất (x.St 1,26). Con người là chi mà Chúa nhớ đến, loài người là gì mà Ngài phải bận tâm? (Tv 8,5). Tất cả chỉ vì Thiên Chúa đã đoái nhận loài người làm dưỡng tử trong Con Một dấu yêu của Người là Đức Giêsu Kitô (x.Eph 1,5). Mặc dù có điểm khởi đầu, có kinh qua cánh cửa sự chết, nhưng hiện hữu của con người là bất tận, vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống” (Mt 22,32).
3. Sự thật về hạnh phúc:
Con người đã được dựng nên là tồn tại mãi mãi. Thế nhưng số phận đời đời của mỗi người là được hạnh phúc viên mãn hay phải trầm luân vĩnh viễn còn tùy thái độ sống của mỗi người khi còn tại thế. Con người chỉ có hạnh phúc đích thật khi là chính mình như thuở ban đầu cuộc sáng tạo đó là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là chính mình khi nên một với Đức Kitô, làm môn đệ của Người. Và Chúa Kitô đã khẳng định khi chúng ta yêu mến nhau như Người đã yêu mến chúng ta thì chúng ta sẽ ở trong tình yêu của Người và đích thực là môn đệ của Người (x.Ga 13,35; 14,9-11).
Chính con tim, tấm lòng của chúng ta dành cho tha nhân, nhất là cho nhũng người bé mọn sẽ quyết định về số phận đời đời của chúng ta (x.Mt 25,31-46). Thánh Gioan Tông Đồ đã nói: “Ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,7-8).
Năm Phụng Vụ sắp kết thúc nhắc nhủ cho chúng ta sự thật này: cái chung cục mới thật quan trọng. Đảm nhận chức vụ này hay ở địa vị kia, sống bậc sống này hay bậc sống nọ, tất thảy đều hướng đến mục đích cuối cùng là được cứu độ, được hạnh phúc viên mãn. Để có hạnh phúc thật, chắc chắn phải đón nhận Sự Thật là Đức Kitô, vì không một ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người (x.Ga 14,6). Và dưới gầm trời này chỉ có một Danh mang ơn cứu độ là Giêsu Kitô. Khi đã đón nhận sự thật là Chúa Kitô thì chúng ta cũng sẽ biết được sự thật về con người cũng như con đường để đạt được hạnh phúc muôn đời.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột