Nhảy đến nội dung

Tôm hùm ân sủng

CN 12 QN     Tôm Hùm Ân Sủng

  “Nếu vì một người duy nhất đã sa ngã mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người”(Rm 5, 15).

    Điều đó có nghĩa là sự sa ngã của A-đam, so với ân sủng của Đức Ki-tô ban thì không là “Cái Đinh” gì. Quả thật, sự sa ngã của A-đam chỉ là mấy cây đinh đóng hai tay và hai chân của Đức Ki-tô vào thập giá thôi. Để qua cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô, chúng ta nhận được Ân Sủng gấp bội. Có thể nói đó là “một vốn bốn lời”; “thả con tép mà bắt con tôm...hùm”. Nói như vậy để chúng ta hiểu điều mà thánh Phao-lô muốn nói và Giáo Hội cũng tin như vậy.

   Thánh Phao-lô thì nói: “Ở đâu tội lỗi ngập tràn, ở đấy ân sủng cũng được thông ban dư dật”(x.Rm 5,20). Và “Hội Thánh thì hoan ca khi ca mừng nến Phục Sinh: Nguyên tội hỡi, Tội hóa thành Hồng Phúc. Nhờ có ngươi, ta mới có được Đấng Cứu Tinh cao cả dường này”(x. GLCG, số 412).

   Chúng ta cùng tìm hiểu về sự sa ngã của A-đam và Ân Sủng của Đức Ki-tô.

  1. Sự sa ngã của A-đam.

    Theo sách Giáo Lý Công Giáo thì: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài và cho họ sống trong tình thân với Người. Là một thụ tạo tinh thần, con người có thể sống tình thân đó khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Điều đó được diễn tả trong lệnh truyền, cấm con người ăn trái cây biết lành biết dữ: “Vì ngày ngươi ăn nó, người sẽ chết”(St 2,17). “Cây biết lành biết dữ”, nói lên một cách biểu tượng ranh giới mà con người là thụ tạo không thể vượt qua nhưng phải tự ý nhìn nhận và tôn trọng với lòng tín thác. Con người tùy thuộc vào Đấng Sáng Tạo, phải tuân theo các định luật tự nhiên và các tiêu chuẩn luân lý qui định việc sử dụng tự do”(x. GLCG, số 396).

   Như vậy, sự tự do Chúa ban cho con người không có ý nghĩa là để con người muốn làm gì thì làm. Nhưng có những định luật tự nhiên và có các tiêu chuẩn luân lý chi phối. Điều này chúng ta cũng dễ hiểu, như khi chúng ta lái xe chẳng hạn. Chúng ta muốn lái xe thế nào mặc ý, nhưng phải theo nhưng qui định luật đi đường. Ví dụ như gặp đèn đỏ chúng ta phải dừng; hoặc đường một chiều, ta chỉ đi một chiều chứ không được đi ngược lại; vv.....Nếu mà ai ai cũng chấp hành theo luật đi đường đã qui định thì mọi người sẽ được an toàn, không có xảy ra những tại nạn thương tâm và đáng tiếc.

    Thế nhưng, “Con người bị ma quỉ cám dỗ, đã đánh mất lòng tín thác vào Đấng Sáng Tạo và khi lạm dụng sự tự do, con người đã bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người. Từ đó mọi tội lỗi đều là do bất tuân Thiên Chúa và thiếu tín thác vào lòng nhận hậu của Người”(x. GLCG, số 397).

   “Trong tội này, con người đã chọn chính mình thay vì Thiên Chúa và do đó đã khinh mạn Thiên Chúa: Con người đã chọn mình bất chấp Thiên Chúa; bất chấp những đòi hỏi của tình trạng thụ tạo và do đó bất chấp cả điều tốt lành cho bản thân. Khi tác thành con người trong tình trạng thánh thiện, Thiên Chúa đã dành sẵn ơn “Thần hóa” sung mãn trong vinh quang. Do ma quỉ cám dỗ, con người muốn “nên như Thiên Chúa” mà không cần Thiên Chúa, qua mặt cả Thiên Chúa và không theo Thiên Chúa”(x.GLCG, số 398).

   Như thế, tội của A-đam không phải là tội “tham ăn tục uống”, không nuốt trọn trái cấm vào bụng mà mắc ở cổ; nhưng là tội không vâng lời Thiên Chúa truyền dạy. Không tin vào Thiên Chúa mà tin vào ma quỉ. Đã dùng sai sự tự do Chúa ban. Điều đó giống như những người, tưởng mình có bằng lái xe thì muốn lái sao thì lái; bất chấp tín hiệu; bất chấp bảng chỉ đường; bất chấp đèn xanh đèn đỏ; phóng nhanh, vượt ẩu. Kết quả là “đoàn tụ với ông bà” sớm.

   Tội của A-đam gọi là Nguyên Tội hay tội Tổ Tông. “Bằng cách nào mà tội của A-đam lại trở nên tội của cả nhận loại? Toàn thể nhân loại đều ở trong A-đam “như một thân thể duy nhất của một con người duy của một con người duy nhất. Do “thể thống nhất của nhân loại”, mọi người đều liên lụy với tội của A-đam, cũng như đồng hưởng sự công chính của Đức Ki-tô. Tuy nhiên việc lưu truyền nguyên tội là một mầu nhiệm mà chúng ta không hiểu thấu trọn vẹn. Nhưng nhờ mặc khải, chúng ta biết rằng, A-đam đã được hưởng nhận sự thánh thiện và công chính không phải cho riêng mình mà cho bản tính nhân loại. Khi chiều theo cám dỗ, A-đam và E-và phạm tội với tính cách cá nhân nhưng tội đó ảnh hưởng đến cả bản tính con người mà nguyên tổ đã truyền lại trong tình trạng sa đọa. Tội đó truyền lại cho hết nhân loại qua việc sinh sản, nghĩa là truyền lại một bản tính loài người đã mất sự thánh thiện và công chính nguyên thủy. Do đó, nguyên tội được gọi là “tội” do loại suy. Đó là một thứ tội con người bị “nhiễm” chứ không phải là “phạm”; một tình trạng chứ không phải một hành vi”(x. GLCG, số 404).

   Tội Tổ Tông mà chúng ta bị nhiễm như chúng ta bị lây nhiễm Covid vậy. Và thuốc đặc trị cho tội Tổ Tông là Phép Rửa. Khi chúng ta chịu phép rửa tội là chúng ta được rửa sạch tội Tổ Tông. Còn khi chúng ta dùng sai tự do, bất tuân, làm điều xấu thì đó là tội do mình gây ra, nên ta phải chịu trách nhiệm về tội đó chứ không đổ thừa cho A-đam.

    “Giáo lý về Nguyên Tội gắn liền với giáo lý về ơn cứu chuộc nhờ Đức Ki-tô, giúp ta biết nhận định sáng suốt về hoàn cảnh và hành động của con người nơi trần thế. Vì nguyên tổ phạm tội, ma quỉ phần nào đã thống trị trên con người, mặc dầu con người vẫn còn tự do. Hậu quả của nguyên tội là con người phải làm nô lệ dưới quyền kẻ bá chủ sự chết là ma quỉ. Nếu không biết bản tính con người bị tổn thương, nghiêng chiều về sự dữ, người ta có nguy cơ mắc phải những lầm lẫn nghiêm trọng trong lãnh vực giáo dục, chính trị, hoạt động xã hội và luân lý”(x. GLCG, số 407).

  1. Ân Sủng của Đức Ki-tô.

     “Cũng vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa mà muôn người bị liệt vào hàng tội nhân, thì cũng nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ được kể là người công chính(Rm 5,19). Nhờ vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, Đức Giê-su đã đảm nhận vào trò người Tôi Tớ Đau Khổ, “hiến mạng sống mình là Của Lễ Đền Tội muôn dân”, “khi làm cho họ nên công chính bằng cách chính Người gánh lấy tội lỗi của họ”(Is 53,10-12). Như vậy, Đức Giê-su đã đền bù và đền tạ thỏa đáng cho Chúa Cha vì tội lỗi của chúng ta”(x. GLCG, số 615).

    Đức Giê-su Ki-tô là A-đam mới, “Đấng vâng phục cho đến chết trên thập giá, đã sửa lại sự bất tuân của A-đam và mang lại ân sủng tràn đầy: “Nếu vì một người duy nhất đã sa ngã mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người”(Rm 5, 15).

   “Tại sao Thiên Chúa lại không ngăn cản con người đầu tiên phạm tội? Thánh Lê-ô Cả trả lời: “Ân sủng khôn tả của Đức Ki-tô , đem lại cho ta những điều tốt đẹp hơn những gì mà vì ganh ghét, ma quỉ đã cướp mất”. Thánh Tô-ma A-qui-nô cũng nói: “Sau khi con người đã phạm tội, không có gì ngăn cản bản tính loài người hướng về một cứu cánh tốt đẹp hơn”. Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra để từ sự dữ rút ra sự tốt lành hơn”(x. GLCG, số 412).

   Bởi thế, chúng ta không thể vin vào việc A-đam sa ngã mà biện minh cho những quyết định và những việc làm xấu xa của mình. Đừng có nói, nếu A-đam không phạm tội thì tôi đâu có phải khốn khổ và phạm tội thế này. Là người tín hữu Công Giáo, chúng ta đã được rửa tội; đã rửa sạch tội Tổ Tông, chúng ta phải khốn khổ và phạm tội là do mình không tuân theo lời Chúa dạy, chứ không phải tại A-đam.

   Trong bài Phúc Âm, Đức Giê-su có nói: “Anh em đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn anh em hãy sợ Đấng tiêu diệt cả linh hồn lẫn xác trong hỏa ngục”(x. Mt 10,28). Do đó, chúng ta đừng sợ ma quỉ; cũng đừng sợ những cám dỗ của chúng. Bất quá thì chúng chỉ giết được thân xác của chúng ta mà thôi. Chúng ta hãy kính sợ Thiên Chúa. Đấng tiêu diệt cả linh hồn lẫn xác của chúng ta trong hỏa ngục thì cũng cho linh hồn và xác của chúng ta được lên thiên đàng.

    Vậy chúng ta hãy tín thác vào lòng nhân hậu của Chúa cũng như vâng lời, thực hành những điều Chúa truyền dạy, để dù chúng ta có sa ngã, phạm tội, nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta cũng được tha thứ. Những sa ngã và tội phạm của chúng ta cũng như sự sa ngã và tội phạm của A-đam thôi. Sự sa ngã của chúng ta, so với ân sủng của Đức Ki-tô ban thì không là “Cái Đinh” gì. Qua cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô, chúng ta nhận được Ân Sủng gấp bội. Có thể nói đó là “một vốn bốn lời”; “thả con tép mà bắt con tôm...hùm”. Sự sa ngã và tội phạm của chúng ta nhỏ như con tép; còn Ân sủng của Đức Ki-tô thì to như con tôm hùm, nên chúng ta đừng bao giờ ngã lòng về tình thương và ân sủng của Chúa. Hãy luôn tín thác vào lòng nhân hậu của Chúa và cố gắng thực hành điều Chúa truyền dạy, chúng ta sẽ bắt được những “Con Tôm Hùm”; sẽ lãnh nhận được nhiều Ân Sủng của Chúa. Đó gọi là Tôm Hùm Ân Sủng.

Lm. Bosco Dương Trung Tín

Tác giả: