Nhảy đến nội dung

Trở lại như Thánh Phaolô - Đáp lại lời mời

25.1Thánh Phaolô, Tông Đồ trở lại

Trở lại như Thánh Phaolô

2 Sm 7:18-19,24-29; Tv 132:1-2,3-5,11,12,13-14; Mc 4:21-25

Khi chọn ai, Chúa không theo những tiêu chuẩn thường tình của con người nhưng theo những tiêu chuẩn rất lạ: không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc…

Đọc lịch sử Giáo hội, tuy chúng ta thấy không có một vị thánh nào khả dĩ so sánh được với thánh Phaolô. Thánh Phaolô là một bậc thầy, một vĩ nhân, một nhà mô phạm. Chính Giáo hội, mẹ chúng ta cũng đã đề cao thánh Phaolô như một vị hướng đạo tối cao và có nhiều uy tín nhất. Giáo hội đã dành cho thánh Phaolô một điạ vị khá quan trọng trong địa hạt giáo huấn các Kitô hữu. Đa số các bài sách thánh Giáo hội đọc hàng ngày trong Thánh lễ hoặc trong kinh nhật khóa đều trích dẫn trong các thư phong phú, sâu sắc, thực tế, nhiều tính chất thời sự.

Thế nhưng hầu như không bao giờ Ngài tỏ ra có vẻ hơn người. Nếu có nói, có khoe thì chỉ là nói và khoe những cái yếu đuối, những cái ngu dại, những cái hèn mọn, những cái bị khinh thường và những cái hư không để nhờ đó mà thấy rõ hơn tình yêu thương của Chúa đã dành cho mình

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng ngày Thánh Phaolô được ơn trở lại. Bây giờ tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ của tôi nhân dịp mừng ngày lễ trọng đại này.

Trong khi thánh Phêrô được xác định là “đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là “thầy dạy của dân ngoại về đức tin và chân lý” (1Tm 2,7). Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người Kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mê-si-a bị xử tử như một tử tội.

Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisêu đạo đức, đã biến đổi ngài trở thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gl 1,11-16).

Lễ thánh Phao-lô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Ga-li-en, từ thế kỷ thứ 8

Trong sách Công vụ, chính Phaolô đã tự thuật về ơn gọi của mình. Ơn gọi ấy bắt đầu từ một biến cố trên đường ông đi Đamát. Câu chuyện này được tường thuật tới 3 lần: 9,3-7; 22,3-16 và 26,13-15. Bài sách thánh chúng ta vừa nghe là đoạn tường thuật thứ hai.

Có một chi tiết nổi bật trong câu chuyện này. Đó là sự mù lòa và sự sáng mắt của Phaolô. Sự kiện này có thể phân ra thành 3 giai đoạn:

Giai đoạn trước khi Phaolô gặp Chúa Giêsu: ông là một người nhiệt thành. Nhưng chính sự nhiệt thành ấy đã làm ông thành mù quáng khiến ông chống lại Giáo Hội của Ngài (cũng giống như những người biệt phái).

Giai đoạn 2: Sau khi ông gặp được Chúa Giêsu: hoạt động mù quáng chống phá Giáo Hội đã ngưng lại, nhưng ông vẫn còn mù (“Ánh sáng chói lòa kia làm cho tôi không trông thấy nữa”). Sự mù này một phần vì Phaolô chưa thích ứng nổi với ánh sáng quá rực rỡ của Chúa Giêsu, một phần vì ông chưa được chỉ dẫn về đường lối của Ngài.

Giai đoạn 3: Khi gặp được Khanania, thì Phaolô được sáng mắt, vì đã được chỉ dẫn (“Thiên Chúa đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Ngài và được thấy Đấng Công Chính… Anh sẽ làm chứng nhân… về các điều anh đã thấy và đã nghe”).

Nói đến Phaolô là nói đến sự cải đạo của ông .

Đối với Phaolô, con đường Damas là con đường thiên mệnh, con đường của Ý Trời. Con đường ấy đã thay đổi con người và cuộc đời của Phaolô 180 độ. Và con đường đó cũng đã thay đổi hoàn toàn chiều hướng của lịch sử nhân loại.  

Trong ánh sáng huy hoàng, Chúa Kitô phục sinh đã ngỏ lời và đối thoại với Saolô. Thần Khí của Đấng Phục Sinh đã tác động và thay đổi hoàn toàn con người của ông. Ánh sáng ấy làm cho Saolô mù mắt, diễn tả sự mù quáng của ông trước việc bắt bớ các người Kitô hữu. Sự mù lòa còn tượng trưng cho sự “vô tri”: Saolô không thấy Thiên Chúa, không biết Thiên Chúa, mà cứ tưởng như mình biết.  

Chúa Kitô Phục Sinh muốn nhờ Giáo hội, qua Phép rửa, giải thoát Saolô khỏi sự “u mê lầm lạc”, vô tri. Phaolô đã được thấy lại nhờ ánh sáng của Chúa qua Phép rửa, bấy giờ mới nhận biết Đức Kitô và khám phá ra Thiên Chúa, chính là Cha của Đức Giêsu Kitô. Phaolô ngã xuống đất và suốt ba ngày không nhìn thấy, không ăn, không uống, giống như người “chết rồi mới sống lại với Chúa”. Saolô được thông phần cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, được Chúa Cha mạc khải cho biết mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Chúa Giêsu. Từ đó trở nên “chứng nhân” được sai đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các dân ngoại.  

Rõ ràng là ý Trời, Trời đã can thiệp vào cuộc đời của Saolô bằng Tình yêu đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã nói qua miệng ông Khanania, và Phaolô sau này lập đi lập lại nhiều lần. Thiên Chúa đã tuyển chọn Saolô một người duy nhất giữa muôn người.  Cú ngã ngựa trên đường Đamat, biến Saolô thành chứng nhân vĩ đại là Phaolô, một người ngoài nhóm 12 tông đồ, để trao cho sứ mạng làm “Tông đồ Dân ngoại”, biệt danh này không ai có, ngoại trừ Phaolô.  Và từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.

Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.

Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.

Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.

Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.

26.1Thứ Sáu

Thánh Timôthêô và Titô, Gm

2 Sm 11:1-4,5-10,13-17; Tv 51:3-4,5-6,6-7,10-11; Mc 4:26-34

ĐÁP LẠI LỜI MỜI

Thánh Timôthê sinh tại Lystres, miền Lycaonia Thổ Nhĩ Kỳ. Cha ngài là người ngoại giáo, còn mẹ ngài theo Do Thái Giáo, nhưng sau đã trở lại. Theo lời truyền tụng thì thánh nhân đã tin theo Tin Mừng nhờ lời giảng dạy của thánh Phaolô tông đồ trong cuộc du hành duy nhất của ngài.

Khi đến lần thứ hai, thánh Phaolô đã chọn ngài làm phụ tá, và ngài theo thánh tông đồ đi giảng khắp miền Tiểu Á, Macedoine và Hy Lạp. Ngài được đặt làm Giám Mục coi sóc giáo đoàn Êphêsô. Thánh Phaolô đã đặc biệt nâng đỡ chỉ dạy và khích lệ ngài trong nhiệm vụ coi sóc đàn chiên Chúa qua những bức thư gửi cho ngài.

Nhân một buổi lễ tế dâng kính thần Điana của dân thành Êphêsô, ngài đã công khai chỉ trích và chính ngài bị dân chúng bắt và ném đá (24/01/97). Thi hài được giáo dân đem chôn ở đỉnh núi gần đấy.

Thánh Titô cũng trở lại đạo nhờ lời thánh Phaolô và được chọn làm cộng sự viên của ngài, chia sẻ mọi công việc tại Corintô và tại Crêta. Vì lòng nhiệt thành và trung tín trong việc rao giảng Tin Mừng, ngài đã trở nên bạn nghĩa thiết của thánh Phaolô. Chính trong thư (2 Cor 4, 6) thánh Phaolô viết khi còn ở Troas, đã thú nhận điều này: “Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những người cùng khốn, đã đến viếng thăm chúng tôi qua sự đến thăm của Titô”.

Ngài được thánh tông đồ sai đến Corintô với xứ mạng đặc biệt là quyên góp tiền để an ủi và giúp đỡ giáo dân Do Thái. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách hết sức khôn ngoan. Ngài cũng đã hướng dẫn vị tông đồ đến Crêta, và sau cùng ngài được thánh Phaolô đặt làm Giám Mục tại đây. Vì thập giá Đức Kitô, ngài đã phải chịu khổ sở cùng cực đối với dân Dalmatas. Sau cùng, ngài đã kết thúc cuộc đời trong tay Chúa, hưởng thọ 94 tuổi.

 Sau khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu tiếp tục chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác để các ông đi rao giảng Tin Mừng. Chúa mời gọi họ hãy ra đi như những thợ gặt trên cánh đồng lúa chín mênh mông. Lời mời gọi truyền giáo của Chúa cũng được gửi đến với tất cả mọi người. Với Thánh Timôthê và Thánh Titô, các ngài cũng đã đáp lại lời mời gọi của Chúa khi cộng tác đắc lực với Thánh Phaolô trở nên những thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo.

Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em” (Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng.

Nói cách khác, làm Tông Đồ  là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Tin Mừng có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11).

Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô khẳng định “tin là do bởi nghe, còn nghe là nhờ rao giảng lời Đức Giêsu”. Quả thật, sứ vụ rao giảng Tin Mừng xuất phát từ chính lệnh truyền của Chúa Kitô. Khi bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa đã tuyển chọn nhóm Mười Hai và giờ đây Chúa lại “chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác” để các ông đem bình an và Tin Mừng đến cho mọi người. Lệnh truyền đó xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa trước thực tế “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Vì thế, Chúa đã mời gọi các môn đệ “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Trên hành trình truyền giáo, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho các ông thấy những khó khăn tựa như “chiên con đi vào giữa bầy sói”. Người cũng không quên căn dặn các ông cần chuẩn bị những hành trang cần thiết. Đó là tinh thần nghèo khó, thanh thoát khỏi của cải vật chất để chỉ chú tâm vào lời rao giảng về niềm vui của Tin Mừng.

Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, thánh thánh Timôthê và thánh Titô mau mắn đáp lại. Các ngài đã nhiệt thành cộng tác với thánh Phaolô trong việc truyền giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh thánh Phaolô, cả khi Phaolô bị tù đày, Timôthê vẫn ở với ngài. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập.

Khi phục vụ các cộng đoàn Êphêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ. Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật. Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy thánh Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.

Tác giả: