Nhảy đến nội dung

Tư tế theo phẩm trật Giê-su Ki-tô - Chúa cũng cảm thương chúng ta

CN 30 QN 

Tư Tế theo phẩm trật “Giê-su Ki-tô”

  “Muôn thưở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-sê-đê” (Dt 5,6).

   Chức Tư Tế này nói về Đức Giê-su. Có nghĩa là Đức Giê-su Ki-tô là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-sê-đê. Đây là chức Tư Tế theo Tân Ước, chứ không theo Cựu Ước. Chức Tư Tế theo Cựu Ước theo phẩm trật A-a-ron. Chức Tư Tế theo phẩm trật A-a-ron là “Cha Truyền Con Nối”, tức là những người đàn ông con trai trong chi tộc Lê-vi, sẽ là những Tư Tế. Còn Chức Tư Tế theo phẩm trật Men-ki-se-đê, thì không vậy, dù họ không thuộc chi tộc Lê-vi, họ cũng được Chúa chọn làm Tư Tế.

   “Tất cả tiên trưng về chức tư tế trong Cựu Ước, được hoàn tất trong Đức Giê-su Ki-tô, Vị “Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người”. Vị Vua Men-ki-sê-đê, “Tư tế của Đấng Tối Cao” được truyền thống Công Giáo xem như hình bóng chức tư tế của Chúa Ki-tô là “Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-sê-đê”. Đức Ki-tô thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, nhờ hy lễ duy nhất trên thập giá, đã vĩnh viễn làm cho những người được thánh hiến trở nên hoàn hảo” (x. GLCG, số 1544).

   “Thượng Tế nào, cũng là người được chọn trong số người phàm và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc. Bởi chính mình cũng đầy yếu đuối, nên phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho mình như vậy và phải được Chúa gọi” (x. Dt 5, 1-4). Điều này được thấy rõ nơi các Linh Mục Công Giáo. Đó gọi là CHỨC TƯ TẾ THỪA TÁC. Ngoài ra, khi các tín hữu chịu phép Rửa Tội, thì họ cũng được tham dự vào CHỨC TƯ TẾ của Đức Giê-su. Chức tư tế này gọi là CHỨC TƯ TẾ Cộng Đồng. Chúng ta cùng tìm hiểu về hai CHỨC TƯ TẾ này nhé.

   Theo Hiến chế về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Va-ti-ca-nô II, số 10 thì “Chúa Ki-tô, Linh Mục Thượng Phẩm được chọn nơi loài người, để biến dân tộc mới, (tức là Giáo Hội) thành một “Vương Quốc; thành những tư tế cho Thiên Chúa, Cha Người”.

   “Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác, tuy khác nhau, không chỉ về cấp bậc mà còn về yếu tính, song cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Ki-tô, nhưng theo cách thức riêng của mình”.

   “Chức tư tế thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh, các ngài đào tạo và cai quản dân tộc tư tế; đóng vai trò của Chúa Ki-tô cử hành hy lễ tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng”. Trong sách Giáo Lý Công Giáo còn nói rõ hơn: “Chức tư tế thừa tác dành để phục vụ chức tư tế cộng đồng, giúp phát triển ân sủng của bí tích Thánh Tẩy của mọi ki-tô hữu. Đó là một trong những cách thế Đức Giê-su luôn dùng để xây dựng và hướng dẫn Hội Thánh. Vì thế, chức tư tế này được chuyển giao qua bí tích riêng là bí tích Truyền Chức”(x. GLCG, số 1547).

   “Khi thừa tác viên thi hành chức vụ trong Hội Thánh, thì chính Đức Ki-tô hiện diện với tư cách là Đầu của Thân Thể; là Mục Tử của đoàn chiên; là Thượng Tế của hy lễ cứu độ; là Thầy dạy chân lý” (x. GLCG, số 1548). Nói cách khác, “Qua thừa tác vụ của người có chức thánh, nhất là của các Giám Mục và Linh Mục, sự hiện diện của Đức Ki-tô như thủ lãnh của Hội Thánh trở nên hữu hình giữa cộng đoàn tín hữu”(x. GLCG, số 1549).

  Mặc dù vậy, “Sự hiện diện của Chúa Ki-tô nơi vị thừa tác viên không loại trừ những khiếm khuyết của bản tính con người như óc thống trị, những sai lầm và cả tội lỗi nữa. Khi thừa tác viên cử hành các bí tích, có sự bảo đảm của Thánh Thần là ngay cả tội lỗi của họ cũng không ngắn trở hiệu quả của ân sủng. Còn các hành vi khác vẫn mang dấu vết cá tính của thừa tác viên đó, không luôn luôn là dấu chỉ trung thành với Tin Mừng” (x. GLCG, số 1550).

   Nói đơn giản là các Giám Mục và Linh Mục, dù sao cũng vẫn là con người như mọi người; cũng tham- sân- si như ai. Thế nhưng, khi các Vị cử hành các bí tích nhân danh Đức Ki-tô, thì chính Đức Ki-tô hành động nơi các Vị ấy và mang lại hiệu quả ơn cứu độ cho các tín hữu.

   Chúng ta thắc mắc, “quyền do chức thánh” hay “quyền thánh chức” là gì? Đó chính là quyền của Chúa Ki-tô. Qua việc lãnh nhận bí tích Truyền Chức, các Giám Mục và Linh Mục được ban “Quyền thánh chức”, chính là quyền của Chúa Ki-tô(x. GLCG, số 1551). Đó là quyền Dâng Thánh Lễ và quyền thực hiện các bí tích, phục vụ Dân Chúa, chứ không phải để thống trị.

   Ngoài ra, “Chức tư tế thừa tác, không những có nhiệm vụ đóng vai trò của Đức Ki-tô, Thủ Lãnh của Giáo Hội, trước cộng đoàn tín hữu, mà còn hành động nhân danh toàn thể Hội Thánh, khi dâng lên Thiên Chúa kinh nguyện của Hội Thánh, nhất là khi cử hành Thánh Lễ” (x. GLCG, số 1552).

   Bởi thế, những ai được chọn làm Giám Mục hay Linh Mục, thì hãy nhớ và thi hành quyền thánh chức của mình được nhận là Quyền của Chúa Ki-tô trong việc Dâng Thánh Lễ và cử hành các bí tích để phục vụ Dân Chúa, đem ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi người. Còn người tín hữu, thì hãy nhận ra Chúa Ki-tô hiện diện nơi các Ngài, khi các Ngài thi hành Quyền Thánh Chức.

    Còn chức tư tế cộng đồng thì sao? “Được tháp nhập vào Hội Thánh nhờ bí tích Thánh Tẩy, các tín hữu đã được ấn tích thánh hiến để họ thi hành việc phụng tự Ki-tô giáo. Ấn tích rửa tội vừa cho họ khả năng vừa đòi buộc họ phụng sự Thiên Chúa; bằng cách tham dự tích cực vào phụng vụ của Hội Thánh và thực thi chức vụ tư tế cộng đồng, bằng đời sống thánh thiện và đức mến năng động để làm chứng cho Chúa” (x. GLCG, số 1273).

   Bởi đó, các tín hữu, “nhờ chức tư tế cộng đồng, cộng tác dâng Thánh Lễ và thi hành nhiệm vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích; khi cầu nguyện và tạ ơn; bằng đời sống chứng tá thánh thiện; bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực”. Nói cách khác, là các tín hữu thi hành chức tư tế cộng đồng bao gồm hai nhiệm vụ riêng cho Dân Chúa đó là tham dự các bí tích và làm chứng cho đức tin.

   “Thực vậy, những người đã lãnh nhận phép rửa, nhờ sự tái sinh và xức dầu Thánh Thần, được thánh hiến để trở thành chỗ ở thiêng liêng và nhận chức tư tế thánh, hầu qua mọi hoạt động của người tín hữu Ki-tô, dâng hy lễ thiêng liêng và rao truyền những kỳ công của Đấng đã gọi họ từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Ngài”.

    Vì thế, tất cả các môn đệ của Chúa Ki-tô, dù là Giám Mục, Linh Mục hay Giáo Dân, khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng Thiên Chúa trong các cử hành phụng vụ, chúng ta hãy dâng mình làm hy lễ sống động, thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Đồng thời làm chứng về Chúa Ki-tô trên khắp mặt đất và trình bày niềm hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu mà chúng ta ôm ấp cho mọi người.

   Như thế là chúng ta đã hiểu biết về hai chức vụ tư tế trong Giáo Hội, đó là CHỨC TƯ TẾ THỪA TÁC và CHỨC TƯ TẾ Cộng Đồng. Dù thuộc chức tư tế nào, thì “Muôn thưở, chúng ta là Tư Tế theo phẩm trật Men-ki-sê-đê”; Muôn thưở, chúng ta là tư tế theo phẩm trật “Giê-su Ki-tô”, chúng ta hãy chu toàn thừa tác vụ tư tế của mình nhé !!!

   Lm. Bosco Dương Trung Tín

***********

Chúa cũng cảm thương chúng ta

  “Ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4,16).

   Chúng ta là con người hèn mọn, yếu đuối và tội lỗi, làm sao chúng ta dám tiến lại gần ngai Thiên Chúa đây? Dù chúng ta có chịu phép rửa tội, đã nên con cái Chúa thì tuyệt nhiên, chúng ta không xứng đáng; chứ nói gì mạnh dạn, tiến đến gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp đâu. Vì chúng ta chỉ là tro bụi trước Thiên Chúa mà thôi.

   Vậy thì chúng ta phải làm sao đây? Tạ ơn Chúa, đã có Đức Giê-su Ki-tô. Chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà chúng ta không những dám mà còn mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được Chúa xót thương và lãnh nhận ơn trợ giúp mỗi khi cần. Tại sao? Vì Đức Giê-su Ki-tô là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Vị Thượng Tế siêu phàm.

   Trong bài đọc 1, có nói về Người Tôi Trung của Chúa như sau: “Đức Chúa đã muốn Người Tôi Trung phải bị nghiền nát vì đau khổ. Người sẽ hiến thân làm lễ vật đền tội. Và nhờ Người, ý muốn của Thiên Chúa thành tựu”(x. Is 53,10). Ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ mọi người qua cái chết của Người tôi Trung là Đức Giê-su Ki-tô. Người sẽ bị nghiền nát trong đau khổ và trở thành lễ vật đền tội thay cho muôn người.

   “Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (Is 53,11a). Đức Giê-su Ki-tô đã tự nguyện chấp nhận chịu đau khổ trong vui tươi, vì Ngài nhìn thấy được ánh sáng cuối đường hầm là cứu độ muôn người, nên Ngài cảm thấy mãn nguyện, chứ không âu sầu thê thảm.

  “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, Tôi Trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (x. Is 53,11b). Chính Đức Giê-su đã nói trong Bài Phúc Âm hôm nay: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (x. Mc 10,45).

   Người ta hiến máu; hiến nội tạng để cấy ghép cho người khác đã là quí; người nào hiến mạng sống mình cho người khác lại còn quí hơn. Trên đời này, có mấy ai dám hiến mạng sống mình cho người khác; còn Đức Giê-su đã dám hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người. Vì Ngài không chỉ là con người mà còn là Thiên Chúa nữa, nên sự dâng hiến của Ngài có giá trị cứu độ cho muôn muôn người, từ người đầu tiên cho đến người sau hết.

   Đức Giê-su Ki-tô đó còn là Vị Thượng Tế siêu phàm, đã băng qua các tầng trời. Ngài từ trời xuống thế mà. Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, nhưng không phạm tội, cho nên Ngài biết cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta; Ngài biết cảm thông những khó khăn, những đau khổ của chúng ta.

   Chúng ta tự hỏi, Ngài cảm thương thế nào? Ngài cảm thông ra sao?

   Ngài cảm thương đến nỗi yếu hèn của con người chúng ta, nên nhờ sự hi sinh của Ngài, mà Ngài nâng con người yếu hèn của chúng ta lên tận trời cao; lên tận thiên đàng. Những tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh lấy; đã đổ máu đào để rửa sạch tội lỗi của chúng ta; để chúng ta từ một con người bất chính, tội lỗi, nên một con người công chính và thánh thiện trước Thiên Chúa.

   Chúa cảm thương đến nỗi yếu hèn của chúng ta, nên Ngài đã hi sinh thân mình, làm giá chuộc, để chúng ta đường đường chính chính vào Thiên Đàng sống mãi mãi hạnh phúc với Chúa.

    Ngài cảm thông những khó khăn, những đau khổ của chúng ta, nên nhờ sự đau khổ của Ngài, những đau khổ của chúng ta được hòa chung vào sự đau khổ của Ngài làm thành một của lễ duy nhất như giọt nước pha vào trong rượu nho dâng lên Thiên Chúa. Những khó khăn của chúng ta như ngàn hạt lúa miến, được xay nát thành những hạt bột, làm thành tấm bánh dâng tiến Thiên Chúa.

   Có nghĩa là trong Đức Ki-tô Giê-su, những nỗi khó khăn; những đau khổ của chúng ta không qua đi, nhưng chúng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Giá trị đó có thể là để đền tội cho chính mình, để sau này chúng ta không phải đền trong luyện ngục nữa hay chúng ta dâng chúng lên Chúa để làm của lễ hi sinh cầu cho những người thân yêu còn sống hay đã qua đời. Tức là những nỗi khó khăn; những đau khổ của chúng ta có giá trị cứu độ.

   Chúa cảm thông những khó khăn, những đau khổ của chúng ta không có nghĩa là Ngài cất hết những khó khăn, những đau khổ đó đi, nhưng Ngài đã nhận lấy tất cả những khó khăn, những đau khổ đó trên Thánh Giá, để mỗi khi gặp những khó khăn; khi có những đau khổ, nhìn lên Thánh Giá Chúa chúng ta sẽ có câu trả lời; sẽ có cách khắc phục và có sức để vượt qua.

   Vả lại, chúng ta sẽ nhận ra, những khó khăn của chúng ta không khó khăn hơn những khó khăn của Chúa. Những đau khổ của chúng ta có si nhê gì với những đau khổ của Chúa đâu. Và từ đó tâm hồn chúng ta cảm thấy vơi nhẹ đi một nửa; còn một nửa những khó khăn kia sẽ có cách giải quyết; một nữa những đau khổ kia sẽ tan biến đi.  Như Đức Ki-tô, nhờ nỗi thống khổ của mình, chúng ta sẽ nhìn thấy được ánh sáng của cuối đường hầm; chúng ta vui sướng vì đã có được những kinh nghiệm sống và chúng ta cảm thấy mãn nguyện khi chúng ta vượt qua được những khó khăn; khi chúng ta đón nhận những đau khổ. Thật ra những khó khăn, những nỗi đau khổ chỉ nhằm tôi luyện con người của chúng ta mà thôi, chúng góp phần làm cho chúng ta nên thánh nên thiện đấy.

  Bởi đó chúng ta đừng mong Chúa cất hết mọi khó khăn, mọi đau khổ của chúng ta nhé; tốt hơn chúng ta hãy “giữ vững lời tuyên xưng đức tin” đấy. Lời tuyên xưng đức tin đó là : “Tôi tin kính một Đức Giê-su Ki-tô, Con Một của Thiên Chúa. Bởi phép Chúa Thánh Thần, sinh bởi Đức Ma-ri-a đồng trinh, chịu nạn thời Phong-xi-ô Phi-la-tô; chịu đóng đinh trên thập giá, chết và táng xác. Xuống ngục Tổ Tông. Ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết” (Kinh tin Kính).

   Vậy, chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin đó và sống trong cuộc sống của mình. Có thế, chúng ta mới mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được Chúa xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần. Điều đó, có nghĩa là khi cầu nguyện, khi làm việc và khi sống chúng ta hãy cầu nguyện, hãy làm việc và hãy sống “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. A-men”.

  Như hai người yêu nhau, Chàng cảm thương Nàng thế nào; Nàng cảm thông Chàng thế nào thì Chúa cũng sẽ cảm thương đến sự yếu hèn của chúng ta; Chúa cũng sẽ cảm thông đến những khó khăn và những đau khổ của chúng ta như vậy đấy bạn !!!

Lm. Bosco Dương Trung Tín

Tác giả: