Nhảy đến nội dung

Ba câu hỏi chốn lưu đày

BA CÂU HỎI CHỐN LƯU ĐÀY

(Chia sẻ Tin Mừng Chúa nhật 32 TN-C)

“How to die” của Sherwin.B. Nuland là cuốn sách miêu tả tường tận về cái chết, chính xác hơn là tiến trình dẫn đến cái chết. Tác giả chọn viết về sáu loại bệnh phổ biến, với những đặc điểm được xem là đặc trưng cho tiến trình mà ai trong đời cũng phải trải qua một lần. Bản tính của con người vốn dĩ là tò mò. Tò mò về cái chết, nhưng lại sợ phải chết. Âu cũng là dễ hiểu khi các nhà thơ, nhà văn thường viết về cái chết, nhưng hiếm khi chứng kiến nó, còn các bác sỹ và y tá thấy nó thường xuyên thì lại hiếm khi viết về nó.

Những cái chết được miêu tả trong cuốn sách, dù là chết vì tuổi già, vì ung thư, vì AIDS, vì tai nạn, vì bệnh Alzheimer, vì bệnh tim hay vì đột quỵ, qua sự am hiểu và đồng cảm của tác giả đều không còn đáng sợ như chúng ta vẫn tưởng. Để rồi, khi đọc xong cuốn sách, chúng ta có thể thốt lên “À, ra là vậy. Hóa ra chết là như thế!”Bởi lẽ chúng ta đã được thảo luận thẳng thắn, chi tiết nhất về cái chết, đã phần nào được thỏa trí tò mò về cái chết, nên chúng ta đã được chuẩn bị tâm lý để đối phó với vấn đề chúng ta sợ hãi nhất.

Có lẽ, Sherwin.B. Nuland đã phần nào cho độc giả phần nào cảm thấy cái chết không còn quá đáng sợ như vẫn tưởng. Tuy nhiên, xét một cách nào đó, đây vẫn chỉ là một cuốn sách trấn an tâm lý. Nếu ví đời người là mọt hành trình, ông chỉ cho độc giả cách để đối diện với cái chết. Còn chết rồi có đáng sợ nữa không, với ông vẫn là một ẩn số.

Trình thuật Lời Chúa trong những ngày này hướng người tín hữu về mầu nhiệm cánh chung. Trong Bài Tin Mừng, phái Sađđucêô là con cháu của Sađốc,[1] thuộc chi họ Lêvi và là giai cấp tư tế, cũng không tin có sự sống lại ở đời sau. Họ giới hạn mạc khải vào 5 cuốn sách đầu tiên của Kinh thánh nên quả quyết “không có sự sống lại, không có thiên thần” (Cv 23, 8). Sự sống lại là giáo điều khiến họ ly khai với nhóm Biệt phái. Đang khi đó niềm tin về sự sống lại đã xuất hiện trước đó hai thế kỷ (Đn 12, 2-3), vào thời Maccabêô.

Vì không tin nên khi nghe Đức Giêsu nói về sự sống lại thì nhóm Sađđucêô bịa ra câu chuyện lắt léo để chế giễu Ngài. Nếu có sự sống lại ở đời sau thì người vợ có bảy đời chồng sẽ là vợ của ai? Đức Giêsu phủ nhận một quan niệm quá trần tục về sự sống đời sau theo lối sống ở đời này. Sau đó Ngài dựa trên chính thế giá của Môsê mà người Sađốc đã dẫn chứng trong bộ Ngũ thư để minh chứng về sự sống lại.

Một số tôn giáo cũng tin có một cuộc sống khác sau khi chết, dựa theo luật nhân-quả hay nghiệp báo, và cho rằng đời người chuyển hóa thành nhiều kiếp. Theo mạc khải Kitô giáo, mỗi người chúng ta chỉ có một cuộc đời duy nhất mà mình đang sống và cuộc sống này định đoạt số phận vĩnh cửu của chính mình. Vì thế mà ta phải sống hết mình cho đời này để đáng hưởng hạnh phúc đời sau. Trong sự xác tín đó, người Kitô hữu được định nghĩa cách đơn giản là người được Alselm Grun định nghĩa là “tận tình với sự chết, nhiệt tình với sự sống”. Với những suy tư vắn vỏi, xin được trình bày những suy tư qua ba câu hỏi: Con người từ đâu mà tới? Con người sống ở đời này để làm gì? Sau khi chấm dứt cuộc sống ở đời này con người đi đâu?

Nhiều triết gia, nhiều Đấng sáng lập Tôn giáo luôn luôn cố gắng để trả lời ba câu hỏi này bằng bằng nhiều lý thuyết, bằng nhiều con đường khác nhau. Phần mình, chúng ta được phúc rất lớn bởi vì chúng ta nghe đạo lý không phải của một người phàm, mà là của chính chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Ngài từ trời xuống trần gian này để cho chúng ta biết nguồn gốc mình, biết phải sống ở đời này để làm gì, rồi sau khi hoàn thành cuộc đời chúng ta sẽ đi đâu.

Tôi từ đâu mà đến?

Thánh Kinh trình bày với chúng ta một hình ảnh mới của Thiên Chúa. Trong các nền văn hóa chung quanh, hình ảnh của Thiên Chúa và của các thần linh luôn mơ hồ và trái nghịch. Tuy nhiên, theo đà phát triển của đức tin Thánh Kinh, nội dung của kinh Shema, lời nguyện cơ bản đối với người Do Thái, đã trở nên càng ngày càng rõ ràng và hùng hồn. Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất(Đnl 6,4). Chỉ có một Chúa duy nhất, Đấng dựng nên trời đất, Đấng do đó là chủ tể muôn loài. Có hai sự kiện hệ trọng liên quan đến khẳng định này: tất cả các thần linh khác không phải là Chúa, và vũ trụ trong đó chúng ta sống xuất phát tự nơi Thiên Chúa và được Thiên Chúa tạo thành.[2] Trong đó, con người không phải là ngoại lệ

Được sáng tạo giống hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta không phải là Tề thiên Đại thánh Tôn Ngộ Không nứt ra từ hòn đá. Không phải như vậy! Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người,Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô.(Ep 1, 5) Ấy là nguồn gốc của chúng ta!. Chúng ta, dù đã được ơn làm con Thiên Chúa, nhưng vẫn đang sống sống ở trần gian, nơi ấy chúng ta không được miễn trừ khỏi bất cứ một cám dỗ nào. Tuy nhiên, trong thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô cũng cho chúng ta biết: Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. (Pl 3, 20)

Ý nghĩa của sự hiện hữu

Sống ở đời này chính là cách thế để hoàn thành nhiệm vụ tôn thờ tạ ơn Thiên Chúa là Đấng đã thương cho ta được hưởng cuộc sống tốt đẹp. Ngay từ lúc mới sinh ra, con người đã được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa: thật vậy, con người đã chẳng hiện hữu, nếu, một khi đã được Thiên Chúa vì tình yêu mà tạo dựng, nó không được Thiên Chúa vì tình yêu mà luôn luôn bảo tồn; và con người cũng chẳng sống theo chân lý cách trọn vẹn, nếu nó không tự nguyện nhìn nhận tình yêu ấy và phó mình cho Đấng Tạo Hóa của mình.[3] Vạn vật được Thiên Chúa tạo nên như một tặng phẩm cho chúng ta. Tuy nhiên, biết mình thụ tạo, nên phải sử dụng đúng cách những gì mà Thiên Chúa tặng ban. Đừng lừa dối bản thân để nói rằng mình là Thiên Chúa, mình có quyền làm tất cả mọi sự không có ai khác ngoài ta. Có Thiên Chúa là Cha, chúng ta phải thờ phượng tôn thờ và tin theo giáo huấn của người hầu được chia sẻ vinh quang trong sự sống đời sau. Đó là ý nghĩa cuộc sống! Chúng ta sống ở đời này là cuộc đời ngắn ngủi, một cuộc đời mà ta biết nó chỉ tạm thời để chuẩn bị cho cuộc sống lâu dài hơn, hạnh phúc hơn, vĩnh cửu hơn. Tất cả những ơn lành nhận được trong cuộc đời này, chúng ta phải biết sử dụng như là phương tiện là dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.

Một cõi đi về[4]

Khi nhìn về kiếp nhân sinh thật mong manh và vắn vỏi, nhạc sĩ Trinh Công sơn đã từng thốt lên:

Con chim ở đậu cành tre

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn.

Tôi nay ở trọ trần gian

Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời[5]

Dẫu biết rằng cuộc đời này chỉ là quán trọ nhưng quán trọ cuộc đời này thật hấp dẫn, hấp dẫn đến nỗi ai cũng muốn níu kéo thời gian nơi quán trọ. Thế nhưng cho dù có bám víu, có cố công vun trồng những tiện nghi thật đầy đủ cho quán trọ cuộc đời này, rồi cũng có ngày phải từ giả tất cả để ra đi. Sau khi chấm dứt cuộc sống này, ta sẽ đi về đâu? Chúng ta có quê hương thật là chốn Chúa Giêsu đã đi trước để chuẩn bị cho chúng ta. Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. (Ga 14, 2-3). Khi được biết rõ về nguồn gốc, ý nghĩa của cuộc sống hôm nay, chúng ta sẽ cố gắng để gìn giữ sức phẩm giá, ơn gọi của mình. Noi gương các vị tiền nhân chúng ta chấp nhận đau khổ tạm thời ở trần gian này để bảo vệ niềm tin của mình và Thiên chúa và tin chắc rằng mình sẽ được đón nhận một cuộc sống vinh quang hơn.

Đàng khác, dưới khía cạnh văn hóa, sống gửi thác về, sống là ở gửi tạm, chết trở về cội nguồn, Đấng Tạo Hoá. Chính vì thế, khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát, ngàn dân tung hô, tôi thật vinh phúc.”[6]. Hội Thánh cũng dạy rằng, linh hồn bất tử,[7] không hư mất khi lìa khỏi xác trong giờ chết, và sẽ tái hợp trở lại với thân xác trong ngày phục sinh cánh chung.[8]

Trong xã hội ngày hôm nay, chúng ta đã thấy tận mắt cái sự nhiễu nhương của cuộc sống mà người ta thờ danh, lợi, thú thay vì Thiên Chúa. Có cùng đích, có nguồn gốc, có ơn gọi, có phẩm giá cao quý là hoạ ảnh của Thiên Chúa, chúng ta phải cố gắng để nói điều này cho đồng bào của chúng ta, đặc biệt những người đang lún sâu vào những cám dỗ của quyền lực vật chất, những người đang làm những điều trái đạo lý, trái lương tâm. Là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta đều được gọi để trở nên nghĩa tử của Ngài. Quê hương của chúng ta không phải ở thế gian này, chúng ta cần biết tận dụng những ơn lành Chúa ban để sống hôm nay như một sự chuẩn bị cho một cuộc đời tương lai vinh quang muôn đời trên thiên quốc.

Chúng ta tin Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ là cái chết. Nhờ Đức Kitô thì tất cả đã thành đạt, nhưng thực tế ta vẫn phải gánh lấy những khổ đau của phận người. Niềm tin và hy vọng không diệt nổi bản năng sinh tồn, nhưng nó đem lại một tâm tình đón nhận nhẹ nhàng. Tuy nhiên, không ai có thể đón nhận cái chết thể lý trong niềm hy vọng phục sinh mà lại không mở rộng con tim để vượt qua cái chết vốn đã hàm ngụ nơi cuộc sống này.

Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, xác tín điều đó giúp cho người Kitô hữu vượt qua lòng ích kỷ, thắng được sự nhát đảm và cảm nhận được giá trị của niềm vui đích thực, niềm vui “là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại”. Hãy sống đích thực là một người có Đức Tin, bởi đó là khởi đầu của sự sống muôn đời.[9]

Vầng đông dậy, ánh hồng gieo rắc

Chốn thiên cung nhã nhạc vang hòa...

Ấy Vua Cả oai phong lẫm liệt

Cõi âm ty: hủy diệt tiêu tan.

Chân người dẫm nát tử thần

Tù nhân đau khổ ân cần đưa lên.

Đã im bặt câu than tiếng khóc,

Đã hết rồi cảnh ngục thê lương,

Sứ thần áo trắng vui mừng

Loan tin Chúa đã vui mừng phục sinh.

Xin cho mọi lòng thành hoan hỉ

Mãi muôn đời mừng lễ Vượt Qua

Tái sinh ơn nghĩa chan hòa

Vang vang khúc khải hoàn ca reo hò.

Muôn lạy Chúa Giêsu từ ái

Đấng lừng danh đánh bại tử thần.

Ngàn đời hiển trị muôn dân

Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần quang vinh[10]

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin đẩy xa những gì cản bước tiến chúng con trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng con được hoàn toàn tự do mà thực hiện ý Chúa.[11]

Đức Hữu

[1] Xađốc (27): Tên Hy Lạp Saddoukaioi (Saddouk trong Bản LXX) nói lên liên hệ với tên riêng Hípri Sadôq (2 Sm 8,17; Ed 40,46; 43,19). Con cháu của ông Sadôq được đặc ân là phục vụ Đền Thờ trong tư cách tư tế sau khi hồi hương từ đất lưu đày Babylon. Họ làm thành một đảng chính trị–tôn giáo trong Do Thái giáo kể từ thế kỷ ii tCN đến khi Giêrusalem thất thủ vào năm 70 sau CN. Đa số thuộc về giới quý tộc tư tế ở Giêrusalem. Đối lại với người Pharisêu, họ có một cách giữ Luật tự do hơn; họ thích ứng dễ hơn với phong trào hy-hóa của dòng họ Sêlêukhô; họ cũng dễ thỏa hiệp với người Rôma hơn. Tuy nhiên, họ vẫn thuộc về giới lãnh đạo Do Thái giáo. Họ chỉ chấp nhận Bộ Ngũ Thư là bản văn mô phạm. Họ chuộng cách giải thích sát mặt chữ; cũng vì thế, họ có khuynh hướng bảo thủ về phụng vụ (không chấp nhận những quy định mới mà người Pharisêu đưa vào, chẳng hạn các nghi thức ngày Lễ Xá tội) cũng như về mặt giáo thuyết (họ thiên về duy vật, không chấp nhận có các thiên thần, phủ nhận sự sống lại).

[2] ĐGH Benedicto XVI, Thông điệp Deus caritas est, số 9

[3] CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 19: AAS 58 (1966) 1038-1039.

[4] Tên một bài hát của Ns. Trịnh Công Sơn

[5] Ns Trịnh Công Sơn, Ở trọ

[6] Lời bài hát Ngày về 1 của Lm Kim Long.

[7] Công Đồng Latran 1513.

[8] GLHTCG, số 366.

[9] GLHTCG, số 163

[10] Thánh Thi Phục Sinh

[11] Lời tổng nguyện Chúa nhật XXXIITN - C

Tác giả: