Bài học hiệp thông từ các gia đình trong Kinh Thánh
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Phạm Quốc Huyên
BÀI HỌC HIỆP THÔNG TỪ CÁC GIA ĐÌNH TRONG KINH THÁNH
Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O.Cist.
Gia đình là nền tảng của Giáo hội và xã hội. Tuy nhiên, ngày nay nạn ly dị gia tăng đang đe doạ sự hiệp thông trong các gia đình. Người ta nêu lên nhiều lý do cho hiện tượng này. Với tư cách là Kitô hữu chúng ta có thể tìm đến Kinh Thánh như một hướng dẫn cho đời sống của mình như thánh Phaolô đã nói với ông Timôthê: “Anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan. Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2 Tm 3, 15-16). Theo lời khuyên của thánh nhân, chúng ta đọc Kinh Thánh, và thấy có các trình thuật nêu lên những nguyên nhân làm mất đi sự hiệp thông: sự ghen tương và thù oán nhau, những xung đột về lợi ích, sự thiên vị của người trên, sự ngây thơ dại khờ đã khơi lên sự ghen tương và thù oán của người khác đối với mình. Tuy vậy, người ta cũng có thể tái lập sự hiệp thông nhờ lắng nghe nhau, chịu đựng lẫn nhau và nhận ra thiếu sót của mình, nhất là khiêm tốn và tha thứ cho nhau cách khôn ngoan. Bằng việc đọc lại những trình thuật Kinh Thánh này, chúng ta có thể rút ra bài học về sự hiệp thông trong các gia đình và cộng đoàn của chúng ta ngày nay.
I. Những nguyên nhân làm mất sự hiệp thông
1. Ghen tương và thù oán (x. St 4, 1-16)
Truyện Kinh Thánh đầu tiên về các anh em cũng là câu chuyện ghen tị dẫn đến giết nhau, giúp chúng ta đi vào trung tâm của vấn đề. Cain và Abel có nhiều điểm chung: cùng cha mẹ, cùng một môi trường, một mái ấm, một sự giáo dục. Tuy nhiên, họ không thể hoà giải những khác biệt: Người lớn tuổi hơn và mạnh hơn là Cain, người trẻ hơn và yếu hơn là Abel. Cain là người làm vườn, còn Abel là người chăn nuôi. Nghề nghiệp của họ diễn tả hai não trạng và văn hoá khác nhau.
Cả hai đều dâng cho Thiên Chúa những sản phẩm do công việc của họ làm ra. Nhưng Cain có ấn tượng rằng mình không được lắng nghe và chấp nhận như người em của mình. Trong thực tế, ông nghĩ rằng Thiên Chúa phân biệt đối xử giữa hai người và thích Abel hơn mình. Cain không nghĩ rằng Thiên Chúa là một người Cha. Cain thấy Abel là một đối thủ. Ông mất bình an và niềm vui trong cuộc sống, vì để cho nỗi ghen tương và thù oán xảy ra trong tâm hồn mình.
Ở ngoài đồng, xa cách những người khác, Cain đã đánh và giết Abel. Lúc ấy “Thiên Chúa nói với Cain: “Abel em ngươi đâu rồi?" Cain thưa: "Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?" Đức Chúa phán: "Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Cain thưa với Đức Chúa: "Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi” (St 4, 9-13). Nhưng tại sao Cain không biết kiểm soát nỗi thù oán và bạo lực nảy sinh trong tâm hồn ông? Tại sao ông không nhận ra hạnh phúc của em ông cũng là hạnh phúc của ông? Ông đánh mất sự hiệp thông với em mình chỉ vì ông đã không kiềm chế được nỗi ghen tương và thù oán của mình.
Tại sao chúng ta cảm thấy bực mình, nổi loạn và giận dữ khi những người lân cận của mình được đánh giá cao và được ca ngợi, khi họ thành công và mọi việc đều xuôi xắn đối với họ? Tại sao chúng ta lại vui mừng khi mọi việc xảy ra một cách tồi tệ đối với họ? Con người ghen tương đã bao phủ cảm giác của ta với sự kiêu ngạo đối với người khác và biện minh cho những cảm xúc này với những lý do khác nhau. Chỉ đến lúc cuối cùng Cain mới nhận ra rằng ghen tương và bạo lực chống lại em mình không giải quyết những vấn đề của ông, hay thoả mãn những nhu cầu của ông. Ngược lại, chúng còn làm gia tăng oán thù và bất an hơn nữa.
2. Xung đột về lợi ích (x. St 13, 2-18)
Điều gì thường gây ra những bất hoà và chia rẽ giữa anh chị em với nhau, giữa bạn bè? Đó là sự xung đột về lợi ích. Hai người sống hoà hợp và yêu thương nhau, nói chuyện với nhau, đi dạo với nhau, nhưng vào một lúc nào đó, sự lạnh nhạt, thinh lặng và ngờ vực trỗi dậy, bùng nổ sự tranh chấp, cãi vã và chia rẽ. Điều gì đã xảy ra? Chúng ta hãy xem xét câu chuyện thứ hai trong Kinh Thánh giữa ông bác và cháu trai: ông Abraham và ông Lót.
Abraham là một người may mắn. Từ một chút ban đầu, ông đã trở thành một người chủ giàu có với đàn súc vật đông đảo, một người được kính trọng và quý mến. Cháu của ông là Lót, một trẻ mồ côi đã đi theo ông trong cuộc di cư từ phương Đông đến Palestine. Ông luôn được chia sẻ trong mọi công việc và những thành công của ông Abraham. Ông đã có đàn súc vật riêng và những người chăn thuê cho ông. Dần dần, những lợi ích làm cho hai bên bất hoà. Kinh Thánh cho chúng ta hiểu rằng lỗi lầm không phải khởi đầu từ Abraham, vì ông luôn luôn là một người công chính và hiếu hoà. Cũng không phải bởi ông Lót, người luôn kính trọng bác của mình, nhưng khởi đầu từ những người chăn súc vật cho họ. Chúng ta biết những cãi vã thô bạo xảy ra giữa những người mục đồng. Vì thế, ông Abraham và ông Lót đã từng sống hoà hợp và bình an với nhau, nay lại đối nghịch nhau.
Ông Abraham có thể làm gì? Ông có thể nhấn mạnh về quyền lợi của mình, quyền ưu tiên của ông. Ông có mọi sự để chống lại cháu ông. Thay vào đó ông đã chứng tỏ mình là người khôn ngoan và hiểu biết. Ông đã nhận ra rằng vào một thời điểm nào đó, việc duy trì quyền lợi của mình không còn quan trọng nữa.
Có những gia đình vì cứ khăng khăng giữ quyền lợi của mình trong nhiều năm, nhiều thập niên, đã đầu độc họ, đã làm họ mất nhiều tiền bạc vào việc kiện tụng, trong khi đó những lợi ích mà họ cho rằng phải giữ lấy đã không còn nữa. Trước khi bắt đầu cãi vã về những lợi ích, cần tự hỏi chính mình: Điều này có đáng không? Trên hết, các Kitô hữu làm gì khi nhận ra rằng: Một mặt họ đòi hỏi một vài quyền lợi nào đó, mặc dù những điều đó không luôn luôn được bảo đảm, mặt khác, họ mất đi sự bình an, tình yêu, sự hoà hợp, vui vẻ và ngay cả sức khoẻ vì sự bất hoà? Lúc ấy những thiệt hại nào xảy ra cho linh hồn, cho đức tin, làm tê liệt con người khi chúng ta không kiến tạo được sự bình an trong cuộc sống?
Abraham đã nói với ông Lót: “Sao cho đừng có chuyện tranh chấp giữa bác và cháu, giữa người chăn súc vật của bác và người chăn súc vật của cháu. Vì chúng ta là anh em họ hàng với nhau! Tất cả xứ chẳng ở trước mặt cháu đó sao? Cháu hãy xa bác đi. Nếu cháu đi về bên trái thì bác sẽ đi về bên phải; nếu cháu đi về bên phải thì bác sẽ đi về bên trái” (St 13, 8-9). Abraham để ông Lót chọn đồng cỏ tốt nhất. Lịch sử cho chúng ta thấy đồng cỏ tốt nhất mà ông Lót đã chọn sẽ bị huỷ diệt bởi hình phạt giáng xuống trên Sôđôma và Gômôra. Abraham đã từ bỏ quyền lợi của mình, nhưng trong thực tế lại giữ được đồng cỏ của mình lâu nhất!
Abraham mời gọi chúng ta, không nhất thiết phải từ bỏ quyền lợi của mình một cách tự động trong trường hợp có bất hoà, nhưng đừng làm trầm trọng thêm những nguyên nhân của cuộc tranh cãi vì tư lợi bản thân. Hãy biết cách rộng lượng và tự nguyện tìm kiếm một sự ổn định thân thiện hơn là một cuộc cãi vã, ngay cả với sự trợ giúp của những người khôn ngoan là bạn của cả hai bên. Đừng làm sự khác biệt về lợi ích trở thành lý do cho sự thù oán, nỗi cay đắng và sự thù địch. Hãy biết cách nhượng bộ, trong khi biết rằng Thiên Chúa sẽ ban thưởng cho người có một tấm lòng tốt.
II-Những phương thế giúp lập lại sự hiệp thông với nhau
1. Tái lập sự hiệp thông với nhau nhờ lòng khiêm tốn (x. St 33)
Có những trường hợp trong đó, giữa anh em không có sự hiểu biết nhau đầy đủ, cũng không hoàn toàn ác cảm với nhau, nhưng có sự khó khăn để hiểu biết nhau. Đây là chuyện có sự xen kẽ giữa thiện cảm và ác cảm, giữa yêu thương và thù ghét. Trong thực tế, người ta có ấn tượng rằng hai cảm xúc và hai đam mê không loại trừ nhau, nhưng đan xen nhau. Những người ghét nhau bởi vì họ yêu nhau, và ngược lại. Câu chuyện Kinh Thánh thứ ba có thể giúp chúng ta đi vào khung trời cảm xúc này.
Êsau và Giacóp là hai anh em sinh đôi. Bởi vì điều này họ có nhiều lý do để cảm thấy họ gắn kết và hoà hợp với nhau. Tuy nhiên, họ không phải là cặp sinh đôi giống nhau trong mọi sự. Ngược lại, họ có nhiều điểm khác biệt nhau: nét mặt, trí thông minh, tính cách, sở thích và khả năng. Êsau là đứa con cưng của người cha, trong khi Giacóp là đứa con yêu dấu của người mẹ. Nhưng họ có vài điểm chung: họ thương nhau và ghét nhau với cùng sự thoải mái và thường xuyên. Họ tìm đến nhau để rồi ngay lập tức chạy trốn nhau. Người mẹ của họ đã hiểu điều này ngay cả trước khi họ được sinh ra, bởi vì bà cảm thấy họ đấu tranh với nhau ngay trong bụng của bà.
Giacóp thông minh và tự phụ, lợi dụng cơn đói của anh và sự mù loà của người cha. Còn Êsau vì tính không kiên nhẫn và hời hợt đã mất những quyền lợi của mình. Người mẹ không có khả năng hoà giải họ. Họ phải xa nhau để khỏi giết nhau. Gia đình bị phân tán, con cái bất hoà và giận dữ, cha mẹ thất vọng và nản lòng.
Nhưng ở tuổi trưởng thành, hai anh em trở về để tìm kiếm nhau. Và họ đã tìm thấy nhau: “Ông Giacóp ngước mắt lên, thấy ông Êsau đang tiến đến, có bốn trăm người đi cùng” (St 33, 1). Ông rất sợ hãi, vì anh ông có thể giận dữ và sẽ giết ông. Nhưng ông Giacóp được Thiên Chúa hướng dẫn, đã sụp xuống đất lạy bảy lần trước khi đến gần anh mình. Rồi “ông Êsau chạy lại đón em, ôm chầm lấy, bá cổ mà hôn, rồi cả hai cùng khóc” (St 33, 4). Cuối cùng, sự căng thẳng trong tâm hồn họ đã dịu xuống, nỗi sợ biến mất, sự thù oán biến mất. Họ khóc về chuyện của họ, tha thứ cho nhau vì những hành động sai trái của nhau, họ quên đi những lời nguyền rủa và thay vào đó, họ chúc lành cho nhau. Sự khiêm tốn đã biến đổi tính tự phụ và nỗi ước ao trả thù thành niềm vui tha thứ và trao ban cho nhau những điều tốt lành.
2. Tái lập sự hiệp thông nhờ việc tha thứ cho nhau cách khôn ngoan (x. St 37-50)
Khi có những hành động nhục mạ và xúc phạm đến nỗi người ta bị cám dỗ để nói: “Đủ rồi, tôi sẽ tuyệt giao với họ mãi mãi!” Có hy vọng cho một hoàn cảnh như thế không? Đây là vấn đề trong trình thuật sau cùng của sách Sáng Thế, đó là trình thuật về mối liên hệ giữa ông Giuse và các anh em của ông.
Họ là mười hai người con trai của cùng một người cha nhưng khác mẹ. Ông Giuse là người con kế út, sinh ra bởi người vợ mà ông Giacóp yêu quý nhất. Lúc 17 tuổi, ông Giuse là một mục đồng trong công việc của các anh ông. Nhưng giữa ông và họ không có sự hoà hợp và mối liên hệ của họ không được tốt. Lý do rất bình thường: Giuse là đứa con cưng của Giacóp, người đã mặc cho ông chiếc áo đẹp hơn áo của mọi đứa con khác. Ông hay mách những lỗi lầm của họ với người cha. Ông hay có những giấc mơ, và giải thích những giấc mơ đó như những phóng chiếu cho tham vọng vĩ đại của ông. Còn các anh của Giuse thì không có khả năng đối thoại với ông một cách thân thiện để dẹp bỏ những khác biệt và thù oán. Họ kém lòng bao dung và từ chối nhìn nhận sự ghen tị của họ, không chấp nhận các sự kiện, và đã đưa đến việc nuôi lòng thù ghét Giuse.
Một ngày khi Giuse đến gặp các anh của mình, “họ thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần họ thì họ lập mưu giết chết cậu” (St 37, 18). Nhưng Giuđa nói với các anh em: "Ta giết em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? Thôi, ta hãy bán nó cho người Ismael, nhưng đừng động tay tới nó, vì nó là em ta, là ruột thịt của ta” (St 37, 26-27). Những lái buôn người Mađian đi qua đó, anh em của Giuse bán cậu cho người Ismael hai mươi đồng bạc. Những người này đưa Giuse sang Ai Cập và bán cậu tại Ai Cập cho một quan chức của Pharaô. Nhưng Chúa ở với Giuse và bất chấp những khó khăn và đau khổ, ông đã trở nên người quyền thế trong Ai Cập. Gặp nạn đói, các anh của Giuse được người cha sai sang Ai Cập tìm lương thực. Họ đến với Giuse mà không nhận ra ông. Họ cúi mình sát đất trước mặt ông.
Dù Giuse nhận ra họ, ông giả vờ không biết. Trong thực tế, ông xử với họ rất nghiêm khắc và tố cáo họ là gián điệp. Dường như đến lúc ông trả thù vì sự dữ họ đã làm cho ông. Nhưng Giuse không trả thù: với cách đối xử khôn ngoan, ông giúp họ ý thức về lỗi lầm họ đã phạm chống lại người cha và ông. Ông dẫn họ dần dần đến việc thống hối và một tình yêu quảng đại đối với gia đình, và đặc biệt đối với người cha của họ, người đã sống vì các con. Khi ông thấy họ hoán cải, ông tỏ lộ: “Tôi là Giuse, đứa em mà các anh đã bán sang Ai Cập. Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em... Rồi ông hôn tất cả các anh và ôm họ mà khóc” (St 45, 4-15).
III- Những điều cần luyện tập để sống hiệp thông với nhau
1. Sống với nhau như những người anh chị em trong cùng một gia đình (x. Mt 23, 8)
Bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền” được nảy sinh từ lương tâm con người, đã nhìn nhận tình huynh đệ phổ quát trong mục đầu tiên: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế phải đối xử với nhau như những người anh chị em”. Công đồng Vaticanô II dạy chúng ta rằng: “Thiên Chúa đã muốn mọi người hình thành một gia đình duy nhất, và họ cư xử với nhau như anh chị em. Trong thực tế, mọi người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được mời gọi đến cùng một mục đích là chính Thiên Chúa”. Những lời này hiện tại hóa câu nói đầy hy vọng của Chúa Giêsu: “Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23, 8).
Về phương diện lý tưởng và tình cảm, mọi người muốn trở thành anh chị em của nhau. Vậy điều gì trong cuộc sống cản trở chúng ta trở thành những anh chị em với nhau? Trong mỗi người, ngay từ khi mới sinh, cùng với nỗi khao khát về tình huynh đệ, có một tính kiêu ngạo và thù nghịch của cái tôi đối nghịch với những người khác. Từ trong con người, một sức mạnh của tính ích kỷ xúi giục chúng ta từ chối người khác, không chấp nhận họ như những người anh chị em của mình; xúi giục chúng ta loại trừ, bóc lột và đẩy họ ra khỏi cuộc sống của mình.
Khi chúng ta nhượng bộ cho tính kiêu căng phản lý trí, phản xã hội, nó không muốn chúng ta ở cùng cấp độ với những người khác. Chúng ta từ chối ngang hàng với họ, khinh thường và làm giảm giá trị của họ. Chúng ta muốn tôn vinh cái tôi của mình, tranh cãi và trở thành kẻ tố cáo, ông chủ và nô lệ hoá anh chị em của mình. Sự dữ của thế giới nằm ở chỗ thiếu tình huynh đệ giữa những con người và những dân tộc. Người ta đặt lợi ích chính trị và kinh tế lên trên hết. Sự bóc lột, bất công và bạo lực được biện minh. Ngay cả trong một cộng đoàn tu trì, nếu sự thật “mỗi người là anh em của tôi” bị từ chối, lúc ấy sự phản kháng, sự kình địch, tính hiểm độc, đố kỵ, ghen tương, những xung đột xảo quyệt sẽ bùng nổ.
2. Tự giáo dục chính mình về tình huynh đệ (x. Cv 2, 42)
Bất hoà là một căn bệnh bẩm sinh, phổ biến nhất và khó khăn nhất để chăm sóc và chữa lành. Bây giờ chúng ta tự hỏi: làm thế nào chúng ta có thể tìm lại được trong mình cảm thức về tình huynh đệ phổ quát trong trường hợp chúng ta đã mất nó? Hay làm thế nào chúng ta có thể làm gia tăng nó và làm cho nó có hiệu quả hơn?
Tất cả mọi tình huynh đệ giả thiết, đòi hỏi và được xây dựng trên tình phụ tử. Người cha và người mẹ là cội rễ của bất cứ cộng đoàn huynh đệ nào. Trước hết, chúng ta cần tái khám phá Chúa Cha, nguồn mạch sự sống của mọi người, điểm qui chiếu, mẫu mực của cách cư xử và giao hoà giữa anh chị em. Khi người Cha của gia đình vắng mặt, không được nhận biết, không được vâng phục với tình yêu, thật là khó cho con cái hiệp nhất, yêu thương và giúp đỡ nhau. Thiên Chúa đã trở thành con người để biểu lộ tình phụ tử của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô, để truyền thông cho chúng ta ân sủng của Ngài: ân sủng giao hoà và tái hiệp nhất toàn thể gia đình nhân loại. Thiên Chúa chúng ta là Ba Ngôi trong một sự hiệp nhất và hiệp thông hoàn hảo. Lời Chúa hướng dẫn chúng ta gặp gỡ anh chị em mình, giúp chúng ta nhận ra họ, chấp nhận và nâng đỡ họ, quý trọng và sống chung với họ.
Các Kitô hữu đầu tiên đã sống hiệp nhất với nhau: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42). Sống kiên nhẫn hơn, chuyên cần đọc và suy niệm lời Chúa, siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, sẽ giúp chúng ta thành công trong việc sống chung như anh chị em của nhau. Những ai yêu mến Cha của họ cũng sẽ yêu mến con cái của Ngài. Những ai yêu mến Thiên Chúa cũng sẽ yêu mến anh chị em của mình (x. 1Ga 5); và những ai yêu mến anh chị em của mình cũng sẽ yêu mến Thiên Chúa (x. 1 Ga 4).
Việc thực hành hiệp nhất huynh đệ giúp chúng ta “cư xử như những người anh chị em” với mọi người, trong tinh thần của Tin Mừng.
3. Nhận ra những thiếu sót của mình
Trong thực tế, chúng ta mong chờ sự kính trọng và hiểu biết từ những người khác, nhưng mình lại hiếm khi làm như vậy, hay chỉ làm cho những ai mình ưa thích. Chúng ta bị xúc phạm khi những người khác đối nghịch hay phê phán, cảm thấy mình có quyền nói xấu về người khác và xúc phạm họ. Chúng ta đòi hỏi được giúp đỡ một cách tự mãn, nhưng lại từ chối giúp người đang khó khăn. Nhiều lúc, chúng ta là “chuyên viên” trong việc nhận biết khuyết điểm của những người khác, mà không thấy những bất công ta đã làm. Chúng ta thường bị cám dỗ cho mình là người vô tội, bởi vì lỗi lầm luôn là của những người khác. Chúng ta muốn được tha thứ mà không hoán cải. Ngược lại, chúng ta minh oan cho mình, và khiến cho những kẻ làm tổn thương mình phải trả giá. Chúng ta đòi hỏi vinh dự và yêu thương, nhưng khi lại keo kiệt trong việc tỏ ra quý trọng và tử tế đối với người lân cận.
4. Đừng làm điều mình không muốn người ta làm cho mình (Tb 4, 15)
Ông Tôbít đã dạy con của ông là anh Tôbia: “Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4, 15). Nếu tiêu chuẩn đơn sơ này được mọi người thực hành, thì nó có thể thay đổi toàn bộ xã hội. Chúng ta hãy bắt đầu thực hành điều này nơi chính mình và đừng đợi người khác bắt đầu, đừng mong chờ và đòi hỏi mọi người đem nó ra thực hành. Luật sống đầu tiên này khẳng định nguyên tắc bất bạo động, một trong những sức mạnh lớn nhất nằm trong tay loài người. Bất bạo động là một chọn lựa sự sống và loại trừ cái chết, nỗi khao khát hoà bình ngược lại với bản năng chiến tranh độc ác. Bất cứ sự xâm phạm, hung hăng, gây tổn thương, giết người, chống lại một con người là một hành vi bạo lực chống lại toàn thể gia đình nhân loại, bởi vì tình liên đới tự nhiên hiệp nhất chúng ta lại.
Chúng ta đừng học “nghề chiến tranh”, bất kể trong gia đình, quốc gia hay quốc tế. Chúng ta hãy phá bỏ mọi hình thức dạy bạo lực, ngay cả chỉ dùng ngôn từ; hãy học và dạy sống yêu thương và học cách xây dựng hoà bình. Sống bác ái là một nhân đức mà mọi người có thể thực hành, bất kể họ là ai và thuộc bậc sống nào.
5. Học biết lắng nghe nhau
Ngày nay, người ta cần lắng nghe hơn nói. Chúng ta học nói, ngay cả nhiều ngôn ngữ, và chúng ta không còn khả năng lắng nghe nhau. Chỉ khi chúng ta lắng nghe người khác với sự chú ý và không lơ đãng, với sự kiên nhẫn và không vội vàng, với sự ngạc nhiên và không chán chường, thì có khả năng đi vào tâm hồn người khác. Như vậy, chúng ta trở nên người sử dụng thời gian có hiệu quả. Đôi khi chúng ta nghĩ thời gian lắng nghe là thời gian bị mất, nhưng trong thực tế, nếu nghĩ như vậy là vì chúng ta không có thời gian cho người khác, nhưng chỉ cho chính mình và sở thích của mình.
Không ít khi chúng ta dùng quyền để nói hay diễn tả ý muốn trên người khác, nó che giấu cảm giác ngờ vực và loại trừ của chúng ta. Nó là một loạt những lý lẽ và cáo lỗi đầy hàm hồ và mâu thuẫn để biện minh cho mình. Trong khi đó, “một sự lắng nghe có chủ ý” trở nên một trợ giúp lớn và hiệu quả cho người khác. Người ta cần nói những vấn đề của họ cho ai đó, những người hiểu họ để làm giảm nhẹ chúng đi, để không cảm thấy cô đơn trong hoàn cảnh đau đớn, để trao đổi giải quyết vấn đề hay tìm lối thoát. Khi người ta không tìm thấy ai đó để chia sẻ, những vấn đề cá nhân có thể trở thành to lớn, khủng khiếp, chúng làm yếu đi ý nghĩa của cuộc sống và bóp nghẹt niềm hy vọng.
6. Chịu đựng khuyết điểm của nhau (Ep 4, 2)
Thánh Phaolô đã ghi lại tiêu chuẩn của cuộc sống cộng đoàn: “Anh em hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4, 2). Điều này tóm tắt toàn bộ luật của Chúa Kitô. Nó mời gọi chúng ta phục vụ những người khác, để giúp những người đang gặp khó khăn một cách cụ thể: phục vụ tại bàn ăn, giúp một chút trong công việc, nở một nụ cười và cúi đầu chào nhau khi gặp nhau. Đó có thể là những việc nhỏ, bên ngoài có vẻ vô nghĩa, nhưng rất hiệu quả trong việc xây dựng một cộng đoàn huynh đệ, trong việc tạo nên sự hiệp nhất trong gia đình. Đừng dửng dưng khi chúng ta thấy một người đang cần giúp đỡ, vì nghĩ “đó không phải là chuyện của tôi”; đây là dấu chỉ của một não trạng lười biếng, keo kiệt, một sự phủ nhận tình huynh đệ: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6, 2).
Mang gánh nặng có nghĩa là nâng đỡ sự mệt mỏi của nhau, chịu đựng những khó khăn nảy sinh từ việc sống chung, đón nhận nỗi khát mong của người khác, sống tử tế và yêu thương với những người có thể không đáng được xử như vậy. Nếu chúng ta muốn là người anh em, thì phải trở nên mạnh mẽ để mang gánh nặng cho nhau: những gánh nặng này có thể là những khuyết điểm và tội lỗi của chúng ta cũng như của những người khác. Về điều này, Chúa Giêsu là gương mẫu cho chúng ta (x. Pl 2, 6-11): mọi tội lỗi của chúng ta đều chất lên Ngài và Ngài không bao giờ phàn nàn.
Việc hằng ngày phục vụ anh chị em mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta và làm cho cuộc sống chúng ta hạnh phúc hơn. Khi việc phục vụ trở nên hỗ tương sẽ tạo ra sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu cầu nguyện trong Bữa Tiệc Ly, cho chúng ta sống kinh nghiệm về bác ái và niềm vui thực sự.
7. Tha thứ cho nhau (Cl 3, 13)
Thánh Phaolô dạy chúng ta rằng: “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3, 13)
Những ai cho rằng mình không cần làm gì để được tha thứ là kiêu ngạo và mù quáng. Để học biết tha thứ, chúng ta phải cảm nghiệm về nỗi buồn sầu và lòng thống hối Kitô giáo. Thống hối đòi hỏi chúng ta có một sự ý thức về việc sai trái, vi phạm kế hoạch của Thiên Chúa, làm cộng đoàn nghèo nàn và đau khổ. Từ nhận thức này nảy sinh nơi chúng ta nỗi buồn sầu: một sự đau buồn nội tâm, buồn vì đã làm tổn thương những người khác và chính mình, đã phản bội tình yêu Thiên Chúa. Từ đó, đi đến một quyết tâm không tái phạm, đền bù những bất công đã gây ra và khiêm tốn nài xin Thiên Chúa tha thứ. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi và giúp chúng ta có khả năng tha thứ.
8. Học cách làm việc chung với nhau
Nếu chúng ta chưa đạt đến sự hiệp nhất của tình yêu mà các Kitô hữu tiên khởi đã thực hành, thì ít nhất chúng ta hãy nhắm đến sự hoà hợp để cùng làm việc chung với tư cách là một gia đình, một cộng đoàn. Nếu không thì sẽ có nguy cơ người này phá đổ những gì người khác xây dựng.
Sự hoà hợp nằm ở chỗ cùng nhất trí trong một quyết định, trong một mục tiêu được mọi người cùng chia sẻ. Sự hoà hợp của chúng ta phải có cội rễ và mục đích là thiện ích chung, trong đó có hạnh phúc của mỗi thành viên trong gia đình mà họ thuộc về. Đừng để sự hòa hợp giữa các thành viên bị hư hỏng do việc theo đuổi lợi ích cá nhân hay của một nhóm người.
Có lẽ chúng ta phải tái khám phá thiện ích chung là gì? Trong Kinh Lạy Cha, sau khi cầu xin sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cầu xin những nhu cầu căn bản của mỗi người: bánh ăn hàng ngày cho mọi người, một cuộc sống đúng phẩm giá cho tất cả, sự bình an nảy sinh từ việc giao hoà và công bình xã hội thực sự. Nếu chúng ta thực hiện sự hoà hợp liên quan đến những thiện ích này, chúng ta sẽ thành công trong việc cùng nhau cộng tác và hoạt động, bằng việc nhận biết đánh giá đúng và áp dụng trí thông minh, sự nhạy bén và khả năng của mỗi cá nhân, trong việc nhận biết không chỉ bằng lời nhưng còn bằng sự chia sẻ bình đẳng những lợi ích, để phục vụ việc nhân bản hoá thế giới. Bấy giờ chúng ta sẽ ý thức rằng công việc được thực hiện chung với nhau, cùng chia sẻ mệt nhọc, niềm hy vọng, những khoảnh khắc vui vẻ, kết hiệp ý chí và tâm hồn của mọi người, chúng ta sẽ khám phá mình là anh chị em của nhau.
Kết
Các trình thuật Kinh Thánh trên đây cho chúng ta những bài học sâu xa về sự hiệp thông. Hiệp thông với nhau trong cùng một cộng đoàn không phải là chuyện dễ dàng. Nó đòi hỏi mỗi người phải sống một cách có trách nhiệm và đúng cương vị của mình. Trách nhiệm của mỗi người trước hết là chu toàn bổn phận được cộng đoàn giao phó. Chúng ta như là một bộ phận trong cùng một thân thể. Nếu chúng ta ý thức rằng: thành công của anh chị em cũng là thành công của mình thì không còn ghen tương thù oán, và lợi ích chung phải là mục tiêu mà mọi người cùng nhắm đến. Trách nhiệm lớn nhất mà mọi người đều phải thi hành là xây dựng sự hiệp nhất của cộng đoàn. Người ta cần hy sinh chịu thua thiệt vì lợi ích và sự hiệp nhất của cộng đoàn. Nếu ai cũng đón nhận người khác như người anh em ruột thịt của mình, thì cộng đoàn mới có thể đứng vững trong những thử thách gian nan của đời thánh hiến.
PS: Bài viết này đã được đăng trên nội san Linh Đạo Đan Tu “Hạt Giống Chiêm Niệm” trong số 21 năm 2017. Nay xin gửi đến chia sẻ với quý độc giả thanhlinh.net.