Bệnh phong cùi
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Jos Hồng Ân
BỆNH PHONG CÙI
CN 28 TN_C; Lu-ca. 17,11-19
Bệnh phong, còn gọi là bệnh hủi, cùi hay bệnh Hansen, do vi khuẩn Mycobacterium leprae gây ra. Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi nặng hơn vết thương lõm vào da thịt.
Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Vi trùng bệnh cùi làm cho thân thể bệnh nhân bị đau đớn cả trong xương thịt, nhất là ban đêm, mà còn tấn công các chỗ xương sụn. Vì thế tai mũi và các khớp xương bị ăn mòn. Tai sưng lên rồi biến mất dần dần, mũi cũng biến đi để lại giữa mặt một hố mủ máu hôi thối. Các ngón tay rụng dần. Đàng khác bệnh nhân mất cảm giác, nên có bị phỏng, vết thương cũng không thấy đau, vì thế có khi cầm thanh củi cháy đến tay cũng không cảm thấy nóng, nên dễ bị thương nặng, có thể chết mà không biết.
Ở Việt Nam người bị nhiễm bệnh phong chịu thành kiến, chịu sự hắt hủi, xa lánh của cộng đồng, thậm chí bị ngược đãi cho trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ǎn thịt.
Trong Cựu Ước, nếu một người bị tình nghi mắc bệnh phong cùi thì người ta dẫn người ấy đến một vị tư tế có kinh nghiệm chuyên môn về bệnh này. Vị tư tế sẽ cho người ấy sống cách ly với cộng đoàn bảy ngày, sau đó tái khám, nếu không thấy dấu vết phong cùi ra nặng thì họ được về với gia đình. Nếu có những dấu bệnh lây lan thì vị ấy tuyên bố công khai người ấy quả đã bị phong cùi. Tức khắc người ấy bị đuổi ra khỏi làng, dù cha mẹ hay con cái có thương cũng không dám che giấu, vì ai ai cũng sợ bị lây. Mà lây bệnh cùi thì không còn phương dược nào chữa được.
Nếu bị tư tế kết luận là đã mắc bệnh phong, người bệnh buộc phải theo quy chế là: “mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế, ô uế” (Lv 13,45). Khi xác định là mắc bệnh phong thì người bệnh bị đuổi ra khỏi nhà, bị tách biệt khỏi cộng đồng, phải sống lang thang vất vưởng ở những nơi hoang vắng, rừng núi, chui rúc trong các hang hốc để che mưa tránh nắng. “Bao lâu còn mắc bệnh phong thì nó ô uế, nó ô uế nó phải ở riêng ra. Chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,46).
Theo luật Do Thái thời xưa, người mắc bệnh phung phải ở cách xa người không mắc bệnh (kể cả thân thích ruột thịt) khoảng 1,8 mét; nếu có gió thổi, thì khoảng cách phải là 45 mét (x. http://www.gotquestions.org/Bible-leprosy.html). Vì vậy, người bệnh phong phải sống chung với người đồng cảnh ngộ cho tới khi chết, nếu bệnh không thuyên giảm. Đây là biện pháp thi hành ở Do Thái thời xưa để ngăn ngừa bệnh lây lan.
Vào thời của Chúa Giêsu cũng vậy, những người mắc bệnh phong cùi bị xã hội đối xử rất tồi tệ, có thể nói là tàn ác nữa. Vì bệnh phong là một căn bệnh nan y, không có thuốc, cũng không có cách nào, không ai có thể chữa trị được.
Tin Mừng Thánh Luca hôm nay mô tả Chúa Giêsu đang đi “Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người”. (Lc 17,12). Họ là những người đang mắc bệnh phong, theo luật họ không được đến gần người khác không mắc bệnh, khi có người không mắc bệnh đến gần họ phải kêu lên “Ô uế, ô uế” (x.Lv 13, 45). Để cho mọi người biết mà tránh xa.
Trong lúc cùng cực của sự đau khổ cả về thể xác và tinh thần. Họ nghe tin Đức Giêsu có tài chữa bệnh, hôm này Ngài đi ngang qua nơi đó, họ không dám lại gần chỉ đứng đàng xa mà kêu xin: “Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi” (Lc 17,13-14). Đức Giêsu thấy vậy Ngài thương xót và chữa lành cho họ. Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14a). Bởi vì chính các tư tế khám cho họ và xác định là họ mắc bệnh phong và bị ô uế, nên để xác định là được khỏi bệnh thì họ phải trình diện các tư tế, để các tư tế khám và xác định họ được lành sạch và cho phép họ về nhà, hòa nhập với cộng đồng. Nhưng “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17, 14b).
Mười người phong cùi đã được chữa lành nhưng chỉ có một người trở lại cảm ơn Chúa, người này lại là người Samari, bởi anh ta chân thành cảm tạ Chúa từ trong đáy lòng. Trong khi các người kia thì lo sao để các tư tế khám và công nhận mình được lành sạch và cho phép họ trở về sống giữa gia đình và xã hội, thì riêng anh, anh muốn ngay lập tức cảm tạ Thiên Chúa ở chính nơi mà ơn của Người đến với anh, lòng tin đã cứu thoát và biến đổi con người anh.
Chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn” (Lc 17,16). Chúa Giêsu thấy rõ con người của họ, sự vô ơn, bạc nghĩa của họ Ngài đã phải thốt lên “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18).
Về đàng thiêng liêng, tội lỗi được ví như một thứ bệnh phong hủi tôn hồn. Phong hủi là hình bóng của tội lỗi: thân thể người phong hủi bị hư nát dần dần, trước ngoài da, sau đến thịt, rồi đến xương thật là ghê tởm! Bệnh phong hủi làm cho thân xác mất mọi vẻ đẹp bên ngoài, nơi mặt, mắt, mũi, miệng, tay chân ...
Tội lỗi cũng làm cho linh hồn ra ô uế, mất mọi vẻ đẹp bên trong, người mắc bệnh hủi tâm hồn thì: so đo tính toán, ích kỷ hẹp hòi, ghen ăn tức ở, tham lam gian dối, mưu mô giảo quyệt, nói năng tục tĩu, cho vay nặng lãi, đặt điều bịa chuyện, tâm trí hèn hạ, tâm tình đê tiện, bên ngoài thơn thớt nói cười, bên trong nham hiểm giết người không dao, hay miệng thì nam mô, bụng bồ dao găm… Nói tóm lại là bao nhiêu thứ xấu xa, tội lỗi đều đổ cho hủi, người đời vẫn thường gán cho những kẻ xấu, ở bẩn, lười, tham lam: xấu như hủi, bẩn như hủi, lười như hủi, tham như hủi…
Bệnh phong hủi làm cho mọi người lánh xa, còn bệnh hủi tâm hồn làm chúng ta xa Chúa. Bệnh phong hủi gây đau khổ cho người bệnh, lây lan đến mọi người chung quanh. Tội lỗi là thứ bệnh hủi tâm hồn gây ra gương xấu, lôi kéo nhiều người phạm tội, chạy theo ma quỷ.
Để chữa trị thứ bệnh phong hủi tâm hồn thì người bệnh phải nhận ra mình ô uế, chạy đến với Chúa và kêu xin người cứu chữa, nếu không thì suốt đời mang căn bệnh nan y, sống trong đau khổ và tủi nhục, bị mọi người xa lánh.
Jos. Hồng Ân