Nhảy đến nội dung

Bị ruồng rẫy trên quê hương

BỊ RUỒNG RẪY NƠI QUÊ HƯƠNG

            Trang Tin Mừng hôm nay như thường lệ Chúa Giêsu vào hội đường Do Thái để cầu nguyện và giảng dạy. Não trạng của người Do Thái không chấp nhận hình ảnh về một Đấng Mêssia như Chúa Giêsu đang khắc họa, một Đấng Mêssia có nguồn gốc xuất thân từ quê hương của họ. Họ đinh ninh rằng chỉ mình họ là dân riêng của Thiên Chúa, họ không tin nhận ơn cứu độ sẽ dành cho dân ngoại.

            Chúa Giêsu vào hội đường đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe" (Lc 4,21), khiến cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Ðiều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, "mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra" (Lc 4,22). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói: "ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ" (Ðức Giêsu thành Nagiarét, 11). "Người này không phải là con ông Giuse sao?" (Lc 4, 22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiarét có thể có khát vọng gì đây?

            Chúa Giêsu lên tiếng giảng giải cho họ bằng một định đề và hai ví dụ minh họa. Ngài nêu định đề trước : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Rồi Ngài lấy hai ví dụ dẫn chứng về hai ngôn sứ lớn Êlia và Êlisa được sai đến với hai người dân ngoại đó là bà góa thành bà goá thành Xarépta miền Xiđon và ông Naaman người xứ Xyria. Định đề và hình ảnh minh họa này đã làm cho đám người Do Thái khó chịu. Họ bực tức vì Chúa Giêsu đã khen dân ngoại ngay trước mặt họ, họ cảm nhận như thể dân ngoại đã được Thiên Chúa ưu đãi hơn chính họ. Họ đã phản ứng, và cách họ phản ứng thật đáng cho chúng ta quan tâm : Họ “đầy phẫn nộ”, “lôi Người ra khỏi thành”, “kéo Người lên tận đỉnh núi”, “để xô Người xuống vực”... Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã “băng qua giữa họ mà đi”.

            Qua trang Tin Mừng hôm nay ta dễ dàng nhận ra hai thái độ khi giải quyết một vấn đề cần, mà vấn đề ấy đụng đến một sự thật : - Trước hết là thái độ của đám đông : đám đông đã không chân nhận sự thật, lấy phản ứng của số đông để phủ nhận sự thật và tấn công số ít... Sau là thái độ của Chúa Giêsu : Ngài bình tĩnh bước đi, vượt qua dư luận, mạnh mẽ và tự tin khi sống bằng sự thật.

            Chính sự coi thường, khinh khi, nên lòng họ ra trai cứng, không còn khiêm nhường, nhạy bén để nhận ra Đấng Uy Quyền, là Chúa Tể trời đất đang ở giữa họ, vì thế, họ đã khước từ chân tính đích thực của Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: họ sẽ không được bằng dân ngoại, và ơn cứu độ lẽ ra đến với họ trước tiên và phong phú, nhưng khi đã từ trối thì ơn đó sẽ đến với dân ngoại.

            Thái độ độ của đám đông thấy được qua bối cảnh của đoạn Tin Mừng này, rằng “số đông không phải là chân lý”. Những người lãnh đạo tầm thường thì lấy số đông để chứng minh chân lý. Chúa Giêsu đã không làm thế, dọc suốt hành trình sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã nhiều lần chứng minh cho mọi người thấy “số đông không phải là chân lý” : Câu chuyện trong Tin Mừng (Mt 21, 12) miêu tả, người ta đem mọi thứ vào đền thờ để bán trong dịp lễ, một mình Chúa Giêsu đã đánh đuổi họ ; Dịp khác, trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 8, 1-11), khi người ta định ném đá người phụ nữ ngoại tình, một mình Chúa Giêsu bênh vực ; Trước dinh Philatô trong việc xứ án Chúa Giêsu (Ga 18, 28-40), một mình Ngài thua thiệt, dùng mạng sống để bảo vệ chân lý toàn vẹn...

            Và hôm nay, trước vấn đề Chúa Giêsu trình bày qua định đề : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”, và hai ví dụ dẫn chứng về hai ngôn sứ lớn Êlia và Êlisa được sai đến với hai người dân ngoại ; “số đông không hề có chân lý”, họ nổi đóa và tìm cách xô Chúa xuống vực, họ phản ứng theo cảm xúc bên ngoài mà không dựa vào chân lý. Quả là phi lí khi giải quyết vấn đề dựa vào uy thế, phản ứng, và câu trả lời của “số đông”, trong khi “Số đông không phải là chân lý”.

            Người dân quê hương của Người đã không mở lòng ra đón nhận Người. Thánh Luca đã ghi lại vài lời cứng rắn của Chúa Giêsu khiển trách “người nhà” đã không đón nhận Lời Người, nên Phúc Âm được mở ra cho lương dân và người xa lạ, là những người tin vào Chúa Giêsu và đón nhận sứ điệp của Người. Còn những người ở trong nhà, do khép kín trong thái độ khước từ, nên họ đã không tin và đón nhận Chúa Giêsu. Kết quả bi thảm của bài tường thuật này đã báo trước những lời la ó đòi đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá, bởi Người đã tự nhận mình là Con Thiên Chúa.

            Thái độ tiếp theo à thái độ của Chúa Giêsu, thái độ đáp trả lại đám đông bằng cách “băng qua giữa họ mà đi”. Tin Mừng đã làm cho chúng ta ngạc nhiên, làm sao Chúa Giêsu lại có thể “băng qua giữa họ mà đi” đang khi họ “phẫn nộ”... Chúa Giêsu đã mạnh dạn bước trên dư luận, Ngài không bận tâm phản ứng lại đối phương khi họ đang tức giận. Ngài tự tin vì Ngài giữ bên mình một sự thật toàn vẹn. Ngài không cần phản ứng để bảo vệ sự thật, vì sự thật là chính nó, sự thật tự nó đứng vững và sự thật là toàn vẹn. Nếu mỗi chúng ta sống với sự thật, nếu mỗi chúng ta có sự thật trong lòng, chúng ta có thể như Chúa Giêsu, có thể bước qua bất kỳ đám đông nào và băng qua bất cứ phản ứng thắc mắc nào, để hiên ngang bước đi.

            Trong thực tế có người bị coi là không tốt, đồ bỏ, vứt đi ở chỗ này, nhưng họ lại được nhiều người coi trọng và kính nể ở một nơi khác... Còn có nhiều người được xem là nhẹ nhàng, tao nhã, lịch thiệp chốn quan trường, ngoài xã hội, nhưng khi về đến gia đình, họ lại là kẻ bất nhân, vô liêm sỉ với gia đình. Mở miệng ra là quát tháo, chửi bới nên “thượng thẳng tay, hạ thẳng chân” với người thân. Họ thuộc hạng “khôn nhà dại chợ”; “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”; ... hay có những người ăn nói ngọt như đường mía lau, nhưng thực ra họ thuộc dạng: “Đội trên, đạp dưới” nên tâm địa bỉ ổi, xấu xa chẳng khác gì kẻ: “Miệng thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.

            Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến ơn cứu độ. Cần tránh thói hư là: “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”; hay  “bụt nhà không thiêng”. Hãy biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì ghen ghét, hiềm khích hay sợ người anh em trổi trang hơn mình mà ra tay làm hại hay nói năng những lời nguy hại đến thanh danh tiếng tốt của họ! Làm như thế, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương với Chúa Giêsu, và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ mất ơn cứu độ vì không thuộc về Thiên Chúa.

*******************

17.3 Thứ Ba

Mt 18, 21-35

Tha thứ và yêu thương như Chúa 

            Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi, chứ không phải người công chính. Chúng ta là những người tội lỗi. Chúng ta cần trở về với tình yêu của Chúa.

            Câu chuyện nước trời là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Món nợ ân sủng, nợ tình yêu mà ta lãnh nhận từ Thiên Chúa làm sao có thể trả nổi. Từ khi thành hình bào thai trong lòng mẹ ta đã mắc nợ rồi - một món nợ tình, nợ ân. Mười ngàn nén vàng là bao nhiêu! Một trăm quan tiền là bao nhiêu! Thế nhưng cuộc sống con người vẫn mãi ích kỷ, so đo tính toán, bởi vì lòng người chai đá không cảm được ân  tình Thiên Chúa, không biết xót thương anh em.

            Vâng, từ khi là bào thai ta đã mắc nợ; nợ cưu mang chín tháng với bao trìu mến yêu thương ấp ủ Thiên Chúa chuyển trao qua mẹ cha. Mở mắt chào đời, mối ân tình bao bọc vây quanh còn lớn hơn nữa; Bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa vẫn tiếp tục nâng bước đời sống con người: cả bầu vũ trụ vạn vật như những đầy tớ siêng năng, cần mẫn phục vụ, tặng ban cho ta tinh hoa đất trời, tinh hoa con người cho ta được lớn lên thành người, thành con Thiên Chúa.

            Món nợ ta mang là món nợ tình nên chỉ có thể trả được bằng nghĩa yêu thương. Thiên Chúa đã muốn như thế, vì Ngài đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài có tự do, lý trí và có trái tim yêu. Nhưng tình Chúa mênh mang là thế, còn tình người cho biếu được bao nhiêu?!

            Mười ngàn nén vàng – một trăm quan tiền – một so sánh tuy rất sơ tạm nhưng cũng cho thấy một lên tới trời, một ở dưới đất. Nhưng tình vốn dĩ là cho không biếu không: “Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ” (c. 27). Thiên Chúa đã tha thứ tội nợ cho chúng ta; và tình yêu vốn dĩ thể hiện cao nhất ở khả năng tha thứ. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô chúng ta được tẩy sạch muôn vàn tội lỗi: “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.” (Ep 1,7). Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm 5, 8).

            Thế có lý do nào miễn cho chúng ta xót thương người anh em? Thế nhưng có câu ‘tình đời bạc đen’. Con người vẫn cứ mê lầm lẩn quẩn trong vòng hỷ, nộ, ai, ái, ố, dục, cụ. Và người ta cứ thích lấy cái rơm trong mắt người anh em hơn cái xà trong mắt mình (Mt 7, 3 -4). Vì thế, chúng ta sẵn sàng tính sổ với anh em vì một món nợ nhỏ mà không hề mảy may nghĩ đến mình đã được tha một món nợ khổng lồ cách nhưng không. Tên đầy tớ trong dụ ngôn xem ra có vẻ bạc ác, phi lý; nhưng đó lại là thái độ của mỗi người chúng ta.

            Dụ ngôn thật thâm thúy, có tính giáo dục cao, nó giống như vở bi hài kịch; nhưng thực tế trong cuộc sống, mấy ai nhận ra được mình đóng một vai diễn chính gây phẫn uất trong đó. Chúng ta sẵn sàng vung dao khi người anh em làm chúng ta xây xát. Chúng ta sẵn sàng đạp người anh em xuống bùn đen, khi họ lỡ làm lòng tự trọng cuả chúng ta bị tổn thương…. Chúng ta thích bắt bẻ người anh em những lỗi lầm mà chính chúng ta vẫn thường khi mắc phải. Và chúng ta thích ngồi chiếc ghế thẩm phán hơn là chiếc ghế của bị cáo.

            Tha thứ - một hành vi không dễ dàng - Chỉ khi nào có trái tim yêu đích thực người ta mới có thể tha thứ thực sự không tính toán. Hãy lặng thinh, nhìn lên chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh, tuy chịu nhục hình vẫn nói lời tha thứ cho kẻ giết mình, để xin Thiên Chúa hoán cải lòng chúng ta; xin Chúa “cất khỏi mình chúng ta quả tim chai đá và ban tặng cho chúng ta quả tim biết yêu thương” (Ed 36, 26) để chúng ta có thể tha thứ như lời Thầy Giêsu đã dạy – tha bảy mười lần bảy, tha không giới hạn.

            Truyện kể: Một bà mẹ có đứa con trai đi theo bạn bè xấu và bỏ bê việc thờ lễ. Bà mẹ lo lắng nhiều cho con. Bà tìm mọi cách để cảm hóa cậu nhưng vô hiệu. Vào một Chúa Nhật, thay vì dục con đi lễ, bà nhờ con chuyển gói quà cho một gia đình ở phố bên cạnh. Bà hứa sẽ không rầy rà con nữa. Để khỏi phải nghe mẹ giảng dạy, cậu nhận lời mẹ. Cậu đến nhà theo địa chỉ và bước vào nhà, cậu bỡ ngỡ nhìn một bà già đau ốm còn da bọc xương, cùng với ba cháu nhỏ rách rưới đang khóc lóc vì đói. Cậu vội đưa quà và bước ra. Bà cụ thều thào nói: Cậu ơi, cậu chưa thể đi ngay được. Cậu là ơn Chúa quan phòng và là tình thương của Chúa gởi đến gia đình tôi. Xin Chúa trả ơn cho cậu. Người thanh niên bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, không ai nhắc, cậu đã trở lại với gói quà giúp đỡ do chính tiền của mình. Sau đó, anh đã thay đổi cuộc đời. Lòng nhân hậu của hai bà mẹ đã cảm hóa anh.

            Hãy tha thứ và yêu thương như Chúa: Chúa Giêsu đã yêu thương con người và yêu thương nhân loại cho đến chết trên thập giá. Người đã tha thứ cho những kẻ xỉ nhục, làm khổ, làm hại Người. Bị con người làm nhục, hành hình, đóng đinh vào thập giá, Ngài xin Chúa Cha tha thứ cho bọn lý hình. Ngài không hề hờn giận hay thù oán bất kỳ một ai. Lòng tha thứ của Ngài quá sức kỳ diệu. Con người không thể làm gì được.

            Đứng trước lòng xót thương, cảm thông, tha thứ của Chúa, con người phải đáp trả lại tấm lòng bao la yêu thương của Chúa. Nếu con người sống trong hận thù, sống trong hờn căm, con người sẽ chuốc lấy cơn thịnh nộ của Thiên Chúa: Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao ? và Chúa ôn tồn nói như một lời phán xét: Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.

            Khi ta tha thứ, bạn đừng nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào Thiên Chúa và nhìn lại cuốn sổ ghi lỗi của ta. Chỉ có kẻ vô tội mới được phép luận tội và tha thứ thôi. Tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và được thương xót tha thứ, cho nên chúng ta đo lòng thương xót của mình đối với kẻ có nợ chúng ta là tự phụ. Chúng ta cần nhớ bài học này: Theo đức tin, trước nhất chúng ta phải luôn luôn nhìn lên Chúa trước khi xét đoán anh em mình, và lúc đó chúng ta sẽ được đầy lòng nhân hậu khoan dung êm ái và yêu thương.

            Tha thứ như thế thì mới được Thiên Chúa tha thứ cho mình.

            Tha thứ là một điều rất khó, nhưng nó là tuyệt đỉnh và cao quí nhất mà Đức Giêsu đã cống hiến cho con người.

            Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì nhờ tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho loài người là Thiên Chúa của tha thứ  không ngừng. Vì thế, chỉ có một mình Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người: “Ta không bảo con phải tha đền bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy”, tức là tha không ngừng.

            Nếu có khó khăn trong việc tha thứ, ấy là chúng ta vẫn nhìn vào sức nặng của sự xúc phạm mà đối phương đã gây ra cho ta, trong khi đó, lẽ ra chúng ta phải nhìn vào tình thương của Thiên Chúa đối với mình khi Ngài tha thứ tội lỗi cho ta.

            Mùa chay, mùa của kiểm điểm, sám hối ăn năn. Mỗi người chúng ta ai cũng mong mình được Thiên Chúa tha thứ tội nợ. Ngài đã tha thứ tội nợ cho chúng ta, nhưng việc chúng ta tha thứ cho anh em mình là một hành động mở rộng tấm lòng để ơn cứu rỗi của Thiên Chúa đổ vào tâm hồn chúng ta.

Tác giả: