Nhảy đến nội dung

Bối cảnh lịch sử Ít-ra-en thời Tân Ước

Bối cảnh lịch sử Ít-ra-en thời Tân Ước

Nguyễn Ước

THỜI ĐIỂM VÀ DẤU HIỆU

      Sau khi vua Hê-rô-đê Cả băng hà, sứ thần của Chúa lại hiện ra với thánh Giu-se bên Ai Cập, báo mộng cho ông rằng: 'Này ông, hãy dậy đem Hài nhi và mẹ Ngài về lại đất Ít-ra-en, vì kẻ tìm giết hài nhi nay đã chết.'... Nhưng vì nghe tin Ác-khê-lao (Archelaus) lên kế vị vua cha là Hê-rô-đe Cảâ, cai trị miền Giu-đê (Judea), nên ông lo sợ không dám về đó. Rồi sau khi được Thiên Chúa cảnh báo trong giấc mộng, ông quay bước về Ga-li-le (Galilee), đến ở tại một thị trấn gọi là Na-da-rét (Nazareth)... Vào thời đó, Gio-an Tẩy giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng; 'Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đền gần bên.'” (Mt 2:19-23; 3:1-2)

      Về mặt niên đại, người ta ước tính Chúa Giê-su ra đời khoảng năm 6 TCN. Hai năm sau, thánh Giu-se mang ngài và Mẹ Maria sang Ai Cập để trốn lánh cuộc tàn sát hài nhi của vua Hê-rô-đê Cả hay Đại đế Hê-rô-đê vì ông ta không tìm ra Vua dân Do Thái, mà theo các học giả Kinh Thánh Do Thái nói cho biết rằng ra đời ở Bê-lem (Bethlehem). Năm thánh gia thất từ Ai Cập hồi hương có lẽ là năm 4 TCN, tính theo thời điểm băng hà của Hê-rô-đê Cả.

      Trong bàn tay của các kẻ cai trị đất Ít-ra-en, dân chúng Do Thái thấy qua cuộc tàn sát hài nhi rằng đây không phải lần đầu tiên họ là đối tượng của các sách lược áp bức và bạo tàn. Nhưng cho dù phải trải qua các thời kỳ gian nan đau khổ cùng những biến cố đẫm máu đến thế, đức tin của người Do Thái bảo cho họ biết rằng cuộc cai trị của bạo chúa sắp chấm dứt, thời gian còn lại đang được đếm từng ngày.

      Được truyền hứng khởi bởi các tiên tri thời xa xưa, dân chúng Ít-ra-en nôn nóng ngóng đợi ngày xuất hiện của Đức Mê-xi-a, Đấng Cứu thế, Tân Vương được xức dầu tấn phong lên ngôi hoàng đế. Ngày đó sẽ đánh dấu sự kết liễu cuộc thống trị phàm tục của kẻ bạo ngược, và Đền thờ Giê-ru-sa-lem, Nhà Thiên Chúa, sẽ được giải thoát khỏi sự cai trị của ngoại bang lẫn sự băng hoại của địa phương. Đấng Tân Vương phát xuất từ dòng dõi Đa-vít sẽ khôi phục cho dân tộc Do Thái thời hoàng kim của minh quân Đa-vít.

      Với niềm tin không lay chuyển nổi đó, dân tộc Do Thái không giống như vô số dân tộc khác đang bị Đế quốc La Mã phàm ăn nhai nuốt ngấu nghiến. Các dân tôäc đó có những thần linh mà bằng cách nào đó, được tạo trong quá trình pha trộn với chư thần của người La Ma thống trị họõ. Còn đối với dân tộc Do Thái, Thiên Chúa cá biệt của họ là Đấng Chúa Tể vũ trụ; ngài  độc nhất, vô hình, toàn năng, và là Đấng không bao giờ được thờ phụng bên cạnh hoặc cùng với ngẫu tượng đơn thuần bằng đá. Chính Thiên Chúa đã đích thân hứa với tổ tiên họ về sự ra đời của Đấng Cứu độ dân tộc họ.

      Thế nhưng từ khi đặt được bước chân thực dân lên lãnh thổ Ít-ra-en, người La Mã vẫn liên tục và kiên trì gò ép dân Do Thái vào khuôn mẫu của mình. Bằng cách sử dụng các thủ lĩnh tôn giáo và xã hội Do Thái, La Mã ra sức mô phỏng chính xác loại hình đô hộ được họ áp dụng hữu hiệu tại những lãnh thổ khác của đế quốc. Thế nhưng tại lãnh thổ Ít-ra-en, không bước nào do kẻ xâm lăng cùng tầng lớp đại diện của họ tiến hành có thể đem lại tình trạng thái bình và tĩnh lặng mà nhà cầm quyền Đế quốc La Mã đang cần tới. Nó chỉ làm cho đời sống tôn giáo, chính trị và văn hóa ở Đất Thánh càng ngày càng tiến gần tới sự hỗn độn.

      Đang có mặt đầy đủ ở đất Ít-ra-en mọi dấu hiệu báo trước thời điểm đổi thay. Chúng được người dân Do Thái nói tới một cách sôi nổi dù chỉ thì thầm nơi thị tứ, ngoài đồng ruộng, bên bàn ăn gia đình, và thậm chí, ngay trong các sân Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Rằng sẽ không còn xa nữa triều đại công lý của Đấng Cứu thế mà toàn thể dân tộc đã và đang khát khao trông ngóng từ lâu lăém.

TRƯỚC KHI LA MÃ ĐÔ HỘ

      Sau khi gia đình Đức Giê-su đến sống ở Na-da-rét một thời gian ngắn, La Mã mới bắt đầu cai trị trực tiếp đất Ít-ra-en. Thế nhưng trước đó khá lâu, người ta đã cảm nhận sự có mặt của họ tại đó.

      Vào thời anh em Ma-ca-bê (Maccabee), những thủ lĩnh thành lập triều đại Hát-mô-nê-a (Hasmonea/ (110–63 TCN, 40–37 TCN)) của các nhà cai trị Do Thái gốc tư tế trong thế kỷ thứ hai và đầu thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, đã có mặt quân lính La Mã. Lúc đó, họ cùng với nhà Hát-mô-nê-a ký kết hiệp ước lập thành mặt trận đoàn kết chống lại kẻ thù chung của cả hai là người Xê-lu-xít (Selucids). Nhưng dưới mắt người La Mã, đó chỉ một mối quan hệ nhất thời và sơ sài vì theo họ, so với lãnh thổ mênh mông và đa dạng của Đế quốc, vùng đất Ít-ra-en chỉ là một xứ nhỏ bé với người dân theo một loại tôn giáo kỳ quặc, mang tính tỉnh lẻ.  

      Nhưng ngay giữa thế kỷ thứ nhất TCN, An-ti-pa-te II (Antipater) thân phụ của người sau này trở thành Hê-rô-đê Cả, đã có một chương trình hành động với người La Mã. Ông tìm kiếm nơi họ những đồng minh thân tín, có quyền lực. mà ông đang cần tới, để duy trì những dải đất mênh mông cùng tài sản lớn lao được gia đình ông tom góp trong thời cai trị của thân phụ ông là An-ti-pa-te I.

      Là một nhà quí tộc gốc ở I-đu-mê-a (Idumea) mà trong Kinh Thánh gọi là đất Ê-đôm  (Edom) ngoại đạo, với cư dân được xem là hậu duệ của Ê-xau (Esau), anh em song sinh với tổ phụ Gia-cóp. I-đu-mê-a nằm ở phía tây nam và không có ranh giới rõ rệt với miền Giu-đê. Mãi tới khoảng năm 130 TCN, dân chúng ở đó mới bị bắt buộc cải sang đạo Do Thái. An-ti-pa-te I dần dầân lấy được lòng tin tưởng và ngưỡng mộ của nhà Hát-mô-nê-a, là triều đại xâm chiếm quê nhà I-đu-mê-a của ông. Cuối cùng, ông được họ chỉ định làm tổng trấn ở đó và ông cũng người đầu tiên trong dòng họ góp nhặt tài sản ấy.

      Thế rồi các biến cố xảy ra trong nhà Hát-mô-nê-a lôi kéo người La Mã đặt chân tới vùng đất tranh chấp Giu-đê. Các sách lược chính trị và quân sự của một trong những vua Hát-mô-nê-a nổi tiếng nhất, là Hoàng đế A-lê-xan-đê Gian-nê-út (Alexander Janaeus 103-76 TCN), tạo ra cho ông nhiều kẻ thù. Trong đó có người phái Pha-ri-sêu, còn gọi là Biệt phái (Pharisees), các tôn sư Kinh Thánh và các hiền giả; họ khinh thường cung cách văn hóa Hi Lạp của triều đình Hát-mô-nê-a cùng quan hệ khăng khít của nhà vua với kẻ thù quí tộc của họ là người phái Xa-đốc (Saducees). Nhưng khi nằm trên giường bệnh, sắp chết, những trối trăn của Hoàng đế A-lê-xan-đê cho hoàng hậu đã  đưa tới hiệu quả hòa giải với người Pha-ri-sêu. Suốt chín năm cai trị của bà, sự chuyển đổi chính sách này đưa tới một hình thức hiệp nhất và trật tự nào đó.

      Hoàng đế A-lê-xan-đê từ trần năm 67 TCN; nổ ra cuộc tương tranh giữa hai hoàng tử là Hia-ca-nút (Hyrcanus) và A-ris-tô-bu-lút (Aristobulus) để giành chức thượng tế. Người giữ chức thượng tế kiểm soát mọi lợi ích của hoàng gia Hát-mô-nê-a với các cổ phần đất đai rộng mênh mông. Còn nữa, người đó coi sóc luôn cả mọi khía cạnh thờ phụng cùng quản trị tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem, cũng như nhiều khía cạnh quản trị dân sự.

      Theo tục lệ đã định, trong hai anh em ấy, trưởng nam là hoàng tử Hia-ca-nút sẽ làm thượng tế. Nhưng Hia-ca-nút quá yếu ớt trong khi người em A-ris-tô-bu-lút được sự hậu thuẫn của người phái Xa-đốc, những kẻ đang có ý đồ tìm lại các lợi ích của mình bị mất trong giai đoạn hoàng gia hòa giải với người phái Pha-ri-sêu. A-ris-tô-bu-lút dốc hết sức mình để truất phế ông anh. Tổng trấn An-ti-pa-te II cao niên và xảo quyệt hậu thuẩn Hia-ca-nút, chính xác là vì sự yếu ớt của hoàng tử trưởøng nam sẽ khiến cho ông dễ dàng nắm quyền kiểm soát.

      Người La Mã hiểu rất rõ rằng những cải vã ở rìa mép Đế quốc có thể tạo nên hiệu ứng khốc liệt nếu họ không can thiệp. Rô-ma có một kẻ thù sát bên cạnh, đó là Ti-gra-nét (Ti-gra-nes), Vua nước Ác-mê-ni-a (Armenia). Ông ta vừa lấn từng bước một xuống vùng đất Syria và đang vươn tay tới tận A-crơ (Acre), phía bắc đất Ít-ra-en ,mà không gặp chống đối. Nữ hoàng A-lê-xan-đơ-ra đã xoa dịu ông bằng các tặng phẩm.

      Rô-ma không chấp nhận tình trạng đó. Nó chận đứng ở Syria, tháo gỡ bàn tay nắm của vua Ác-mê-ni-a. Với hành động ấy, giờ đây người La Mã có mặt tại các cổng vào Đất Thánh. Chính hoàng tử yếu ớt Hia-ca-nút đã mở cổng cho họ khi ông than vãn với người La Mã về những khó khăn của mình trong việc duy trì quyền kiểm soát dân chúng Ít-ra-en. Bên cạnh đó, cũng chính hoàng tử A-ris-to-bu-lút đã vẫy tay cho La Mã vào khi ráo riết tranh giành quyền lực.

LA MÃ, CHỦ NHÂN CỦA GIÊ-RU-SA-LEM

      Trước đó, A-ris-tô-bu-lút đã thuyết phục Hia-ca-nút nhường địa vị để mình đảm trách cơ quan thượng tế. Từ nơi an toàn I-đu-mê-a, tổng trấn An-ti-pa-te II cảnh báo hoàng tử Hia-ca-nút rằng đó mới chỉ là bước đầu trước khi A-ris-tô-bu-lút dứt điểm ông anh bằng bước cuối. Hia-ca-nút tín nhiệm An-ti-pa-te II, hiệp nhất với ông và người Na-ba-tê-a (Nabatae), đồng minh lâu năm của ông, để chung sức tấn công A-ris-tô-bu-lút. Và họ rồi bao vây Đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến cho A-ris-tô-bu-lút cùng người phái Xa-đốc phải rút vào cố thủ đằng sau các bức tường Đền thờ kiên cố như một pháo đài.

      Hoàng tử Hia-ca-nút cầu viện La Mã tiếp tay chống lại ông em. Người La Mã nhận lời, nhưng trước tiên, họ ra lệnh cho vua A-rê-tát (A-rê-tát) của Na-ba-tê-a phải rút quân về nước. Vì Na-ba-tê-a là thuộc quốc của La Mã nên họ sợ cuộc bao vây sẽ làm khánh kiệt tài nguyên của nước đó.

      Cuộc bao vây được giải tỏa. A-ris-tô-bu-lút trốn chạy tới một pháo đài khác của dòng họ Hát-mô-nê-a là A-lê-xan-đri-on ởû Thung lũng Gio-đan, và bị đại tướng Pom-pê-i rượt theo bén gót. Rõ ràng quân La Mã đã chiến thắng, hoặc họ cho rằng mình đã chiến thắng. Thế nhưng khi phó tướng của Pom-pê-i là Ga-bi-ni-út (Gabinius) tới cổng Đền thờ Giê-ru-sa-lem thì bị không cho vào!

      Sau đó, chính Pom-pê-i dẫn quân quay về bao vây Giê-ru-sa-lem. Năm 63 TCN, vào tháng bao vây thứ ba, quân La Mã dộng thủng tường thành, xông ào ạt lên Đền thờ. Họ tàn sát hàng ngàn người,  giết bất cứ kẻ nào họ bắt gặp, kể cả các tư tế vẫn tiếp tục tế lễ dù chiến trận đang tràn tới.

      Giờ đây người La Mã đảm trách việc cai quản thành đô Giê-ru-sa-lem. Bước kế tiếp là tạo sự ổn định, vì không có nó, họ không thể thu hoạch lợi lộc. Tướng Pom-pê-i chia vùng đất Ít-ra-en mới chiếm được thành bốn miền: Giu-đê ở phương nam, Sa-ma-ri-a ở trung bộ, Ga-liâ-lê ở phương bắc và Pê-ra-ê (Peraea) ở phía đông sông Gio-đan. Hoàng tử Hia-ca-nút được tưởng thưởng bằng một vương quốc thu ngắn. Lúc này, ông thấy đất đai mênh mông từng được cha ông mình sở hữu dưới sự kiểm soát của người Do Thái, nay bị giao hoàn cho các chủ nhân ngoại đạo trước kia.

      Nhưng tình hình không chịu lắng dịu. Dù việc mang hoàng tử A-ris-tô-bu-lút về giam giữ ở Rô-ma đã trói tay ông, nhưng con trai của ông là A-lê-xan-đê phát động cuộc chiến tranh du kích chống lại bác mình. Khiến cho tướng Ga-bi-ni-út không được ở yên với vòng nguyệt quế khải hoàn, phải sử dụng tài nguyên của Đế quốc La Mã để đánh dẹp quân khởi nghĩa. Tuy thế, các chủ nhân ở Rô-ma không tha thứ cho ông tội thiếu khả năng nhanh chóng lập lại trật tự và áp dụng luật pháp ở đất Ít-ra-en, nên cuối cùng, Ga-bi-ni-út kết liễu sự nghiệp tướng quân của mình trong lưu đày.


KHỦNG HOẢNG Ở RÔ-MA

      Giờ đây, bản thân Rô-ma nếm trải một trong nhiều biến động khốc liệt của nó. Tam đầu chế lừng danh gồm Pom-pê-i, Giu-li-út Xê-da (Julius Ceasar) và Cra-xút (Crassus) sắp rã gánh. Năm 53 TCN, Cra-xút chết trong trận chiến với Đế quốc Pác-thi-a (Pác-thi-a) bên bờ sông Ơ-phơ-rát (Euphrates). Giu-li-út. Xê-da và Pom-pê-I đối đầu nhau. Xê-da mang quân vượt sông Ru-bi-con (Rubicon) gần Ra-ven-na (Ravenna) ở Ý để giáp mặt kẻ đối đầu mình. Và sự khải hoàn đột biến của ông đã làm cho tương lai của miền Giu-đê bị biến đổi.

      A-ris-tô-bu-lút, người nuôi lòng thù hận Pom-pê-i trong suốt những năm dài bị giam cầm, đã đồng mưu với Giu-li-út  Xê-da và nhờ thế, được giải thoát. Thậm chí Xê-da còn hứa cấp cho A-ris-tô-bu-lút hai binh đoàn lê-dương để mang về miền Giu-đê, khôi phục địa vị và tài sản của mình. Nhưng chưa kịp rời Rô-ma, ông đã bị các phái viên trung thành với tướng Pom-pê-i đầu độc chết. Con trai của ông là A-lê-xan-đê cũng bị giết.

      Trong khi đó, An-ti-pa-te II khôn ngoan chuyển sự trung thành của mình từ Pom-pê-i qua Hoàng đế Xê-da. Chẳng bao lâu sau, ông có cơ hội chứng tỏ sự thay lòng đổi dạ này. Sự việc Xê-da bị bại trận trong tay người Pác-thi-a khiến cho quân khởi nghĩa ở miền Ga-li-lê có lợi thế nhất thời. Họ nới lỏng được sự kiểm soát của La Mã, đồng thời ra sức tháo gỡ ách nô lệ của quân xâm lăng. An-ti-pa-te II tiếp tay dập tắt cuộc khởi nghĩa đó. Ông cũng khuyên Hia-ca-nút cổ vũ người Do Thái ở Ai Cập ủng hộ Xê-da. Thái độ tích cực của cả hai dọn đường cho Xê-da trở thành chủ nhân sông Nile.

      Trong khi cám ơn An-ti-pa-te II, Hoàng đế Xê-da tuyên bố quyền thừa kế tư tế thuộc chi tộc Hia-ca-nút. Giờ đây, An-ti-pa-te II ngày càng thu hoạch thành quả lao tác của mình. Xê-da bổ nhiệm ông làm tổng chưởng quản, cũng có thể gọi là tổng trấn, miền Giu-đê mà lúc đó đã trở thành một khu vực phụ của tỉnh Sy-ri-a rộng lớn trong Đế quốc La Mã. Với chức chưởng mới này, An-ti-pa-te II phụ trách việc “thu gom, cung cấp” mọi nhu cầu của La Mã. Nắm trong tay quyền sử dụng tất cả tiền thu thuế trong vùng cũng như tổng số thu nhập hằng năm bất động sản riêng tư và dư dật của Hia-ca-nút, lúc này An-ti-pa-tê II trở nên giàu có và uy quyền tới độ trước đây có nằm mơ ông cũng không mường tượng nổi.

      Trong những năm sau đó, trước thanh thế của An-ti-pa-tê II, Hia-ca-nút ngày càng suy yếu tới độ để yên cho tổng chưởng quản ấy bổ nhiệm trưởng nam là Pha-sa-el, người xuất xứ từ đất  I-đu-mê-a “ngoại giáo”, làm tổng trấn “Thành đô Thiên Chúa” Giê-ru-sa-lem. Cùng thời điểm này, một con trai khác của An-ti-pa-tê II xuất hiện trên vũ đài. Trước đây, trong cuộc tranh giành quyền kế vị giữa hai hoàng tử Hia-ca-nút và A-ris-tô-bu-lút, đứa con trai này của An-ti-pa-te II mới 10 tuổi, được đưa ra khỏi I-đu-mê- a cho an toàn. Lúc này, đã 26 tuổi và trở về, được chỉ định làm tổng trấn miền Ga-li-lê. Tên của ông là Hê-rô-đê, về sau thành Hê-rô-đê Cả, hay Đại đế Hê-rô-đê.

KHI NGUYÊN THỦ DÂN NGOẠI CAI TRỊ

      “Chúa Giê-su gọi môn đệ lại và nói: Anh em biết: thủ lĩnh Dân ngoại cai trị dân bằng sức mạnh, nhưng giữa an hem thì không như vậy...” (Mt 20:25-26)

      Nếu Hê-rô-đê kỳ vọng mình sẽ có quyền lực giống như các nhà cai trị khác tại các tỉnh khác trong Đế quốc La Mã mênh mông, thì chẳng bao lâu, ông thấy ra rằng truyền thống cai quản của Do Thái sẽ làm cho công tác của ông ra phức tạp. Chỉ một thời gian ngắn sau khi nắm quyền, quan tổng trấn trẻ tuổi thấy mình bị triệu ra trước Hội đồng Công nghị (Sanhedrin), còn gọi là Thượng Hội đồng, một cơ quan của người Do Thái có thẩm quyền tối thượng về luật pháp. Hê-rô-đê bị kẻ thù nghịch cha mình tố cáo rằng ông đã hành quyết bất hợp pháp Hê-dê-ki-a (Hezekias), một người khởi nghĩa từng làm khắp miền khiếp hãi. Hê-rô-đê về Giê-ru-sa-lem, xuất hiện trước Hội đồng Công nghị. Nhưng sau đó, ông tìm tới người La Mã, yêu cầu được giúp đỡ để trốn lánh các thần dân ngang bướng của ông.

      Để gia tăng sự ủng hộ cho vụ việc của mình, Hê-rô-đê tuôn tặng phẩm ra tặng người La Mã. Bù lại, ông được họ chỉ định làm tổng trấn miền nam Sy-ri-a (có lẽ vùng Phê-ni-xi-a) và Sa-ma-ri-a cùng với các dinh thự đất đai và nông trại. Lúc này, Hê-rô-đê đí tới một quyết định có tính định mệnh: ông nhận ra rằng từ nay về sau, quyền hành tương lai của ông tùy thuộc vào sự tận tụy của ông đối với thần dân Do Thái, nhưng trong khuôn khổ ý nguyện tùy tiện của các chủ nhân ông La Mã.

      Thêm lần nữa, các biến cố tại Rô-ma tạo nên một khúc quặt cho vương quốc Giu-đê nhỏ bé. Năm 44 TCN, Giu-li-út Xê-da bị Bru-tút (Brutus) và Cas-xi-út (Cassius) ám sát. Lúc này, hai ngôi sao đang vươn lên là Mác An-tô-ny (Marh Anthony) và Óc-ta-vi-an (Octavian), cháu gọi Giu-li-út Xê-da bằng chú. Trong số nạn nhân của cuộc bạo loạn này có một nhân vật nổi tiếng là An-ti-pa-tê II, thân phụ của Hê-rô-đê. Ông lão bị nhiều kẻ thù đầu độc trong một bữa tiệc.

      Đây cũng là thời điểm Giê-ru-sa-lem phải biểu lộ lòng tôn kính các nhà cầm quyền mới mẻ ở Rô-ma. Hê-rô-đê, Pha-sa-el và Hia-ca-nút cùng nhau đi An-ti-ô-khi-a, nơi Mác An-tô-ny thiết triều. Nhân cơ hội An-to-ny đang lo lắng về tiếp liệu, Hê-rô-đê tỏ ý sẵn sàng cung cấp, và qua đó, xác nhận sự cai trị của ông trong vai trò quan tổng trấn trẻ tuổi. Hia-ca-nút vẫn giữ danh hiệu quốc chủ, nhưng giờ đây, nhờ bàn tay của An-tho-ny, Hê-rô-đê và người anh Pha-sa-el giữ tước hiệu tiểu vương, tức là đấng cai quản một khu vực lãnh thổ trong Đế quốc La Mã.

Vương quỐc nhiỀu mẢnh cỦa Hê-rô-đê CẢ

      Khi Hê-rô-đê lên ngôi, quá trình nắm bắt quyền lực của ông bị thử thách bởi sự hiệp nhất mong manh các sức lực ở Giu-đê. Nhiều năm về sau, khi Giu-đê khởi nghĩa chống Rô-ma, những sức lực giống như thế được phóng xả, làm thay đổi vĩnh viễn bộ mặt đời sống và văn hóa Do Thái.

      Người ta kể ra nhiều thành tố hiệp thành sự bất ổn ấy để rồi cuối cùng, đưa tới cuộc khởi nghĩa tại Giu-đê. Chúng gồm việc La Mã không có khả năng am hiểu thần dân Do Thái của nó cùng các đòi hỏi đặc biệt của đức tin Do Thái giáo; sự tàn bạo của nhà cầm quyền La Mã; trạng thái kề cận về vật lý đưa tới hiệu quả đụng chạm giữa các cộng đồng Do Thái và cộng đồng ngoại giáo tại nhiều địa phương khác nhau ở Pa-les-tin. Trong thế kỷ tiếp theo sau cuộc khởi nghĩa và sự triệt hạ Đền thờ Giê-ru-sa-lem, các học giả Do Thái cộng thêm vào đó một cái nữa, đó là nguyên nhân nội tại. Họ qui sự hủy diệt Đền thờ cho lòng hận thù vô căn cứ giữa người Do Thái với nhau, một mẫu thức thường xảy ra trong văn học Do Thái lưu truyền qua nhiều thời đại.

      Hạt mầm khỏi nghĩa được gieo xuống mảnh đất rõ ràng cũng rất phì nhiêu do bởi cuộc đấu tranh giành quyền lực bên trong tầng lớp thống trị của người Do Thái. Tâm điểm của tầng lớp thống trị bản địa này là giới tư tế, Khi La Mã nắm Giê-ru-sa-lem năm 63 TCN, nó làm ra vẻ khôi phuc quyền lực cho Thượng tế Hia-ca-nút như một nhà cai quản dân chúng Do Thái. Nhưng Hia-ca-nút thuộc loại nhà cai quản nào? Ông không phải là một tư tế vương giả được dân chúng kỳ vọng là hậu duệ của anh em Mác-ca-bê oai hùng, kẻ sẽ ra những quyết định quân sự và chính trị dũng cảm, và bảo vệ sự thanh khiết của Đền thờ thiêng liêng. Đáng buồn thay, Hia-ca-nút chỉ vỏn vẹn là một phiên bản rất mờ nhạt của các tiên đế uy hùng triều đại ông, và ông chỉ nhận được sự ủng hộ nhỏ nhoi của dân chúng.

      Hê-rô-đê là người mà toàn gia tộc cải sang Do Thái giáo trong thời kỳ đất I-đu-mê-a ngoại giáo của họ bị vua Gio-an Hia-ca-nút (John Hyacanus/134-104 TCN) thuộc triều đại Hát-mô-nê-a thôn tính. Vì vậy dưới mắt người Do Thái, sự kế thừa của Hê-rô-đê không mang tính chính thống. Hơn nữa, việc chiếm giữ quyền lực của ông chủ yếu nhờ sự can thiệp của La Mã. Trong quá trình củng cố quyền bính, Hê-rô-đê đã có những hành xử thậm tệ: ông ra lệnh hành quyết hầu hết các phần tử quí tộc Do Thái từng ủng hộ A-ris-tô-bu-lút.

      Nỗ lực nổi tiếng nhất của Hê-rô-đê nhằm lâáy lòng tầng lớp thống trị người Do Thái là kết hôn với Ma-ri-am-nê (Mariamne), một công chúa dòng họ Hát-mô-nê-a. Bằng nhiều cách, ông tiếp tục cố gắng tạo ra một tầng lớp thống trị trung thành với mình, trong đó có việc tưởng thưởng đất đai và tài sản cho sự kế tục các nhà tiểu quí tộc và các địa chủ vô danh. Trong những người đó có thân phụ của Ma-ri-am-nê II (một quận chúa dòng họ Hát-mô-nê-a, được ông say đắm và kết hôn sau khi hành quyết công chúa Ma-ri-am-nê I), và là người được Hê-rô-đê phong làm thượng tế.

      Tầng lớp quí tộc mới này nợ Hê-rô-đê địa vị của họ. Họ được gọi là “những người theo phe Hê-rô-đê” trong Mát-thêu 22:16, Mác-cô 3:6 và mác-cô 12:13. Người ta rất thường bắt gặp các nhà giàu mới này tại cả hai miền Ga-li-lê  và Giu-đê, như được xác nhận bằng vô số những đề cập trong Tân Ước. Trong các nhà giàu ấy có Khu-za (Chuza) “quản lý của vua Hê-rô-đê” (Lc 8:3) mà vợ là Gio-an-na (Joanna) trở thành môn đệ của Chúa Giê-su và tiếp tay hỗ trợ ngài. Tài sản của họ chủ yếâu liên quan tới việc làm chủ đất đai, với những mảnh đất mua được của người dân không có khả năng trả nợ vì mất mùa hoặc hạn hán thường xuyên xảy ra. Nhiều người dân bị tước mất đất đai, đã gia nhập các băng cướp hay đạo tặc thường được sử gia Giô-xê-phút Fla-vi-út (Josephus Flavius) nói tới. Nhưng đối với tầng lớp dân dã mộc mạc, những người ấy là anh hùng, bất khuất trước nhà cầm quyền La Mã cũng như các nhà giàu ủy nhiệm của nó. Nhiều học giả tin rằng Ba-na-ba, tên “đạo tặc” trong Gn 18:40 có thể là một trong những người nổi dậy ấy.

      Các sách lược của Hê-rô-đê Cả về địa vị tư tế cũng đưa ông tới đụng chạm. Ông đi những bước gay cấn để nắm lấy quyền kiểm soát địa vị tư tế, trong đó có việc tịch thu một cách sỉ nhục, những bộ lễ phục tế tự thiêng liêng, rồi ra lệnh tàng trử chúng ngay trong Pháo đài An-tô-ni-a (Antonia Fotress) nằm chênh chếch gần Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Những đụng độ liên tục của Hê-rô-đê với giới tư tế khiến ông chỉ còn bạn đồng sàng là người phái Ê-xen, một tập đoàn ẩn tu lạ thường, đối lập với vị thượng tế Đền thờ Giê-ru-sa-lem vì những lý do khác nhau.

      Trong Tin Mừng, từ ngữ “kẻ thu thuế” thường đi đôi với “phường tội lỗi” cho thấy vào thời Chúa Giê-su, trong xã hội Do Thái, có một loại người khích động sự giận dữõ của dân chúng. Sự chống đối kẻ thu thuế không đơn thuần đặt trên căn bản kinh tế. Quả vậy, việc thu thuế, kể cả thu thuế Đền thờ, dường như được chấp nhận trong chừng mực người thu thuế không gian lận (Lc 3:13). Và trong các phần lãnh thổ khác của Đế quốc La Mã, người ta xem người thu thuế như một quan chức chính quyền có hiệu năng và xuất sắc. Nhưng trong xã hội Do Thái, người thu thế và người quí tộc được đánh giá là những kẻ sở đắc quyền lực bằng cách không chu toàn những đòi hỏi có tính truyền thống Do Thái giáo về việc chào đời tốt lành và, hoặc học hỏi sách Torah. Đức tin và văn hóa Do Thái dạy rằng chính “bậc thầy trong dân Ít-ra-en” (Gn 3:10) là người được dân chúng kính trọng hơn bất cứ loại người nào khác trong xã hội.

      Ngược với tầng lớp thống trị vô truyền thống tại đất Ít-ra-en thời đó, nhóm các tôn sư hay kinh sư mới mẻ thành thạo sách Torah này nắm trong tay những tiêu chuẩn về thẩm quyền. Họ có người làm thành viên của hội đồng địa phương, được đề cập tới trong Mt 10:17, cũng như trưởng lão hay kỳ mục hội đường (Mc 5:36; Lc 13:14). Các ký lục (Lc 22:66) với sự thông thạo chữ nghĩa là một lợi thế đầy ý nghĩa, và cũng là phương tiện để vươn tới và nắm bắt quyền bính trong dân chúng. Nhưng đối với người La Mã tại Ít-ra-en, giới ký lục  không có địa vị gì, cũng không được dùng tới. Trong khi đó tại các nơi khác của Đế quốc, người La Mã thường kỳ vọng kẻ có địa vị văn hoá và xã hội như họ làm nhịp cầu nối giữa dân chúng bản địa và quan chức đế quốc.

      Như thế, với các diễn tiến trong suốt một thế kỷ, những chênh lệch văn hóa, xã hội và kinh tế làm suy yếu nền móng xã hội. Cuồng phong trở thành bão táp; cuối cùng các hậu duệ của vua Hê-rô-đê không còn che chắn nổi mình, và toà nhà vương giả của họ bị gió đánh, sụp đổ tan tành chung quanh họ.

VƯƠNG QUỐC NHIỀU MẢNH CỦA HÊ-RÔ-ĐÊ CẢ

      Tới năm 40 TCN, Hê-rô-đê lâm một đại nạn khác, nhưng lần này, ông vượt qua và ngôi sao của ông tỏa sáng. Việc Đế quốc Pác--thi-a, cựu thù của La Mã, phát động cuộc tái tấn công, tạo cơ hội cho ngôi sao của Hê-rô-đê chói lọi hơn bao giờ. Trong lúc An-tô-ny đang mê đắm nữ hoàng Ai Cập Clê-ô-pát (Cleopatra), người Pác-thi-a quyết định điều quân tới Sy-ri-a và Li-băng (Lebanon). Sự chậm chạp của An-tô-ny khiến xảy ra tình trạng ngập ngừng và khích động ở Ít-ra-en. An-ti-gô-nút (Antigonus), con trai của A-ris-tô-bu-lút vẫn tìm cách phục hận cho sự hổ thẹn của thân phụ mình khi mất quyền lực vào tay Hia-ca-nút. Hắn thương lượng và ký hiệp ước với vua người Pác-thi-a, hứa sẽ trả cho vua nước ấy một ngàn ta-lăng vàng/bạc (mỗi ta-lăng nặng khoảng 20,4 kg), một con số to lớn, gần gấp đôi tiền thuế hằng năm xứ Giu-đê nộp cho La Mã, cùng năm trăm nữ nhân, nếu vua giúp cho hắn nắm được ngai vàng ở Giê-ru-sa-lem và giết được Hê-rô-đê. Thôn tính Giu-đê, An-ti-gô-nút ào ạt đổ bộ lên Núi Giê-ru-sa-lem. Quân Pác-thi-a giữ lới hứa tới cùng, đánh bại lực lượng của Hia-ca-nút gần Núi Ca-men, và bắt tay với quân An-ti-gô-nút ở Giê-ru-sa-lem.

      Hê-rô-đê tiến quân về Giê-ru-sa-lem nhưng lực lượng không đủ mạnh để tái chiếm thành đô từ tay An-ti-gô-nút trong thời kỳ diễn ra Lễ hội Ngũ Tuần (Pentecost) với sự có mặt của hàng ngàn người hành hương cùng phe với An-ti-gô-nút. Hê-rô-đê với ông anh Pha-sa-en chỉ có thể chiếm được Pháo đài An-tô-ni-a để rồi bị bao vây. Không để mình bị mắc chân trong một cuộc nội chiến của người Do Thái, người Pác-thi-a muốn kết thúc nhanh. Họ đề nghị hoà đàm giữa An-ti-gô-nút, Hê-rô-đê và Pha-sa-en dưới sự giám quản của họ. Hê-rô-đê hoài nghi, không chịu tới dự. Hia-ca-nút và Pha-sa-en nghe lời dụ dỗ, tới và bị bắt trao cho An-ti-gô-nút.

      Cơn thịnh nộ của An-ti-gô-nút bùng nổ khi thấy mặt Hia-ca-nút. Hắn nhảy xổ tới, cắn bác mình đứt tai, khiến cho về mặt nghi lễ, từ nay Hia-ca-nút thành người có tật, không còn thích hợp vai trò thượng tế. Còn Pha-sa-en bị sỉ nhục thậm tệ và choáng váng trước cảnh Hia-ca-nút bị cháu làm cho tàn tật; ông tự sát.

      Nghe tin dữ, Hê-rô-đê nhận ra rằng con đường sống sót độc nhất của mình là phải bỏ chạy. Ông trốn thoát khỏi Giê-ru-sa-lem cùng với thân mẫu, vị hôn thê Ma-ri-am-nê (cháu của An-ti-gô-nút, kẻ thù ông) và mẹ của cô ấy. Đoàn tùy tùng có cận vệ vũ trang với hàng trăm gia nhân. Có lúc, chiếc xe chở thân mẫu ông bị lật làm bà té lăn xuống đất; Hê-rô-đê vung gươm lên, có vẻ như sắp lăn vào mẹ mình. Nhưng ông chửng lại, hạ gươm xuống vì có lời van xin của tùy tùng.

      Đoàn xe người ngựa vất vả tiếp tục cuộc hành trình cực nhọc. Tới Ma-sa-đa, Hê-rô-đê để gia đình lại đó. Ông cùng với những người đồng hành còn lại lên đường tới nương náu nơi vương quốc Na-ba-ta-ê ở phía đông. Thế nhưng vua Na-ba-ta-ê sợ người Pác-thi-a trả đủûa nếu mình giúp Hê-rô-đê, nên bất chấp số ngân lượng lớn lao An-ti-pa-tê đã trả cho mình, quốc chủ của vương quốc sa mạc ấy ông không chịu bảo vệ Hê-rô-đê. Vì thế Hê-rô-đê quay sang Rô-ma. Ông làm một chuyến hải hành đầy mạo hiểm trong gió mùa đông ngang qua đảo Rhodes. Vừa tới Rô-ma, Hê-rô-đê được An-tô-ny và Óc-ta-vi-an đem ra trình diện trước Nguyên lão Nghị viện. Cả hai giới thiệu ông là một đồng minh vô giá trong cuộc chiến chống người Pác-thi-a. Nghị viện liền phong cho Hê-rô-đê làm Hoàng đế Do Thái.

Hê-rô-đê lẤy lẠi nưỚc

      Từ Rô-ma quay về, Hê-rô-đê tái xuất với vương kiện trên đầu. Ông bắt đầu cuộc chiến đấu thu hồi vùng đất cai trị của mình. Ông đánh đuồi An-ti-gô-nút ra khỏi nơi ẩn náu là pháo đài Ma-sa-đa (Masada). Trong cơn bão tuyết, Hê-rô-đê chiếm thị trấn Xếp-phô-rít (Sepphoris), tâm điểm của miền Ga-li-lê, và đánh bại thê thảm quân nổi loạn ở mỏm Ar-ben (Arbel) nhìn xuống con đường chính nối liền tâm điểm Ga-li-lê với Biển hồ Ga-li-lê và phương bắc. Cuối cùng, vào mùa hè năm 37 TCN, Hê-rô-đê chiếm Giê-ru-sa-lem và làm đám cưới với Ma-ri-am-nê.

      Nắm vững Giê-ru-sa-lem, Hê-rô-đê liền ra tay xử trảm những người quí tộc đi theo An-ti-gô-nút. Kế đó, ông chỉ định làm thượng tế người có tên là Ha-na-nen (Hananel), một phần tử vô danh trong giới tư tế gốc Ba-by-lon (Babylon), thay vào chỗ của Hia-ca-nút. Nhưng những bước đi ấy không dập tắt nổi việc chống đối sự cai trị của ông. Hê-rô-đê mất thêm năm năm nữa mới ổn định được tình hình, nhờ chiếm được pháo đài sa mạc của Hia-ca-nút trong tay người chị của An-ti-gô-nút. Kể từ lúc đó, để bảo đảm sự ổn định, Hê-rô-đê để cho một binh đoàn La Mã đóng đồn gần Giê-ru-sa-lem với phí tổn do ông gánh chịu.

      Hê-rô-đê tiếp tục là một đồng minh đầy sức mạnh của An-tô-ny. Thậm chí năm 31 TCN, ông còn phái binh lính của mình tới chiến đấu bên cạnh An-tô-ny ớ Ác-ti-um, miền tây Hi Lạp, nơi Óc-ta-van  nghênh chiến và đánh bại liên quân An-tô-ny và Clê-ô-pát. May mắn thay, bản thân Hê-rô-đê không có mặt trong trận chiến định mệnh ấy vì đang bận viễn chính với người Na-ba-tê. Hệ quả là Hê-rô-đê phải chịu thề trung thành với Óc-ta-vi-an mà lúc này là Hoàng đế Au-gút-tút. Và ông trong dịp thệ nguyện này, ông khôn khéo tự hạ mình xuống bằng cách không đội vương miện. Hê-rô-đê tuôn tiền bạc và tặng phẩm tiến dâng lên Au-gút-tút. Bù lại, ông được Hoàng đế La Mã ân thưởng, phục hồi những đất đai ông đã mất vì mưu đồ của Clê-ô-pát. Và như thế, Hê-rô-đê trở thành Đại đế Hê-rô-đê, hay gọi theo sách Tin Mừng, Hê-rô-đê Cả.

      Trước khi yết kiến vị tân hoàng đế Au-gút-tút, Hê-rô-đê Cả dọn dẹp tình trạng hỗn độn sau chót trong nội bộ mình. Hia-ca-nút, vị thượng tế bị truất phế, dường như vẫn còn là một nguy cơ thông qua người con gái A-lê-xan-đra của ông, và cũng là thân mẫu của Ma-ri-am-ne. Bà muốn truất phế thượng tế vô danh Ha-na-nen để đưa con trai mình là A-ris-tô-bu-lút II, em của Ma-ri-am-ne, lên thay. Nhưng làm như vậy có nghĩa bà đã dại dột ký lệnh hành quyết cho con trai mình. Vào năm 35 TCN tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem, khi cậu thanh niên đẹp trai mười bảy tuổi A-ris-tô-bu-lút II rực rỡ với trang phục thượng tế, xuất hiện trong Lễ hội Lễ Lều trước đám đông người hành hương kính ngưỡng, thì Hê-rô-đê Cả đã quá sức chịu đựng. Ông âm thầm lên án tử hình A-ris-ti-bu-lút II và bí mật ra lệnh cho thủ hạ dìm chết chàng tuổi trẻ tại hồ bơi trong dinh thự của nhà vua ở Giê-ri-khô.

      Lúc này, Hê-rô-đê Cả thiết định một lề luật mới, đòi hỏi dân chúng phải thề tự nguyện trung thành với ông; ai không chịu thề sẽ bị nghiêm trị. Chỉ dụ này chỉ không áp dụng cho người phái Ê-xen, đồng minh của nhà vua, mà vì xác tín tôn giáo, họ không chịu thề.

      Bị ám ảnh bởi sự khủng khiếp không thương xót của những âm mưu có thật hay tưởng tượng được ấp ủ bởi nhà Hát-mô-nê-a, Hê-rô-đê Cả tìm kiếm sự trợ giúp bằng cuộc tàn sát liên tục những kẻ chống đối mình. Hê-rô-đê Cả với hai bàn tay đẫm máu của vô số người, nên thật khó phản bác một hành động được sách Tin Mừng qui cho ông. Đó là việc ông thực hiện cuộc tàn sát thầm lặng các hài nhi ở Bê-lem và các vùng phụ cận khi ông nghe rằng người sẽ làm vua dân Do Thái vừa ra đời ở đó.

      Hê-rô-đê Cả không thể biết được rằng có ít nhất hai cậu bé thoát cuộc tàn sát. Một là Đức Giê-su, được thánh Giu-se mang sang Ai Cập nhờ thiên sứ báo cho biết. Chỉ sau khi Hê-rô-đê Cả băng hà, ngài mới quay về miền Ga-li-lê, và được nuôi dưỡng lớn lên ở thị trấn Na-da-rét. Cậu bé kia, theo tuyền thuyết, thoát được cuộc tàn sát nhờ người mẹ Ê-li-sa-bét đem giấu trong một hang động. Đó là Gio-an. Cậu sẽ lớn lên, làm phép rửa cho nhiều người trong dòng nước sông Gio-đan, rao giảng về chung cuộc của thời đại và báo trước sự đến của Đấng Cứu độ.

      Sau khi được Hoàng đế Au-gút-tút công nhận, Hê-rô-đê Cả triệu hai hoàng tử mà ông có với Ma-ri-am-nê I là A-lê-xan-đê và A-ris-tô-bu-lút, cả hai đang theo học ở Rô-ma. Nhưng bà Sa-lô-mê, em của Hê-rô-đê, xem hai đứa cháu ấy là hai kẻ kình địch nên lập kế chống cả hai. Một hoàng tử khác là An-ti-pa-tê, con trai của Hê-rô-đê với bà Dô-rít vợ đầu, tham gia âm mưu đó. Lời đồn tới tai Hoàng đế Au-gút-tút, và hai hoàng tử A-lê-xan-đê cùng A-ris-tô-bu-lút được mang ra khen ngợi giữa triều đình Rô-ma. Hoàng đế đánh giá cao cả hai, không chịu tin lời người vu khống. Và Au-gút-tút triệu cả gia đình bất hạnh ấy đến Rô-ma yết kiến. Khi về lại Giê-ru-sa-lem, họ cảm thấy bị trừng trị, nhưng không hoàn toàn hòa giải với nhau.

Tháo gỠ

      Sau khi bị Hoàng đế Au-gút-tút quở trách, Hê-rô-đê Cả trở về Giu-đê. Ông tuyên bố trật tự kế vị như sau: thứ nhất thuộc về An-ti-pa-tê, hoàng tử trưởng nam; kế đến A-lê-xan-đê; và sau cùng là A-ris-tô-bu-lút. Nhưng giữa những cáo giác và phản cáo giác không ngừng, sự việc bắt đầu vỡ vụn. Trong thời gian đó, bản thân Hê-rô-đê Cả cũng sai phạm các ngớ ngẩn chính trị đầy tai họa. Trong đó có việc ông không cho phép em gái mình là Sa-lô-mê kết hôn với một nhà quí tộc người Na-ta-ba-ê tên là Syn-la-ê-út (Syllaeus), vì thâm tâm ông chưa bao giờ bỏ qua việc người Na-ba-tê không che chở ông. Nhà quí tộc bất bình ấy khích động một cuộc rối loạn chống lại Hê-rô-đê Cả ở Tra-cô-ni-tít, mạn đông sông Gio-đan, một trong những miền đất lệ thuộc nhà vua. Khi loạn quân từ miền đó chạy trốn sang A Rập (Arabia), Hê-rô-đê Cả rượt theo, tàn sát họ. Au-gút-tút giận điên người khi thấy Hê-rô-đê Cả xâm nhập đất ngoại quốc tới độ Hoàng đế không chịu tiếp kiến kẻ được mình bảo trợ. Lúc này, co mình lại bởi tâm thần e sợ mọi người chung quanh mình, Hê-rô-đê Cả ra lệnh hành quyết Ma-ri-am-nê I cùng thân mẫu của bà là A-lê-xan-đri-a.

      Mưu đồ tiếp nối mưu đồ cùng những chứng cứ giả tạo tiếp tục chất chồng chống lại hai hoàng tử A-ris-tô-bu-lút và A-lê-xan-đê. Giờ đây Hoàng đế Au-gút-tút cho phép Hê-rô-đê Cả yêu cầu vua xứ Sy-ri-a đứng ra làm trọng tài cho mối cừu hận gia đình độc địa này. Một cuộc xử án với sự có mặt đông đúc những người ủng hộ Hê-rô-đe Cảâ, kết án hai hoàng tử ấy phải chết. Cả hai bị hành hình năm 7 TCN. Cũng vào thời gian đó, trong quân đội của Hê-rô-đê mà ở cấp bậc nào cũng có người ủng hộ A-ris-tô-bu-lút và A-lê-xan-đê, bắt đầu có lời thì thầm chống lại đại đế của họ.

      Hoàng tử An-ti-pa-tê chỉ được an toàn một thời gian ngắn ngủi trong vai trò thái tử kế vị. Vì chẳng bao lâu, Hê-rô-đê tính khí thất thường, quyết định điều chỉnh lại việc giết chóc hai con trai trước đây. Ông để mắt tới các cháu nội cô nhi bằng cách dựng vợ gã chồng cho chúng và dùng thành viên khác của gia dình làm người canh giữ chúng. Nhằm xử lý mối đe dọa này, An-ti-pa-tê âm mưu với một người chú, cũng là em của Hê-rô-đê, tên Phê-ô-rát (Pheroas), đánh thuốc độc cha mình.

      Sa-lô-mê, cô em gái mưu trí của Hê-rô-đê với đôi tai luôn luôn nghe ngóng mọi chuyện trong cung đình, báo cáo âm mưu ấy với Hê-rô-đê Cả. Ông cho bắt gia nhân của Phê-rô-át, tra tấn cho tới khi lòi ra sự thật. Lúc đó, Hê-rô-đê Cả ra lệnh xử tử An-ti-pa-tê, nhưng chưa kịp thi hành thì nhận được lệnh đình hoản của Au-gút-tút. “Bản án đó dành cho con lợn Hê-rô-đê thì tốt hơn cho con trai hắn”, câu nói đó được cho là của Au-gút-tút sau khi sự việc xảy ra. Lúc này, Hê-rô-đê Cả thay đổi di chiếu để việc nối ngôi được truyền sang An-ti-pas (Antipas), con trai út ông có với hoàng hậu Man-tha-ke (Malthace), người Sa-ma-ri-a.

      Cuộc sống cung đình ngày càng độc hại. Đằng sau các cánh cửa là những âm mưu mới mẻ. Hê-rô-đê Cả lúc này đã bảy mươi tuổi. Tiếng đồn về việc ông khó ở khắp mình mẩy lan ra rộn ràng nơi hải ngoại, từ các gián điệp của kẻ thù có mặt trong hoàng cung.

      Được khích lệ bởi ý tưởng chẳng bao lâu nữa tên bạo chúa điên loạn sẽ không còn có mặt trên cõi đời, hai nhà thông thái trẻ tuồi và có uy tín ở Giê-ru-sa-lem cho rằng thời gian đã chín muồi để triệt hạ con ó đáng ghét bằng vàng được Hê-rô-đê Cả ra lệnh gắn lên cổng lớn Đền thờ, nhằm vinh danh La Mã. Trong ánh sáng ban ngày, trước mặt đám đông dân chúng, con ó bị kéo xuống đất. Hai người trẻ tuổi ấy lập tức bị bắt mang tới trước mặt Hê-rô-đê Cả, vừa từ giường bệnh gắng gượng ngồi dậy để đích thân thẩm vấn họ. Sau đó, ông hạ lệnh thiêu sống cả hai. Giờ đây, bệnh trạng của đại đế với những triệu chứng được giải thích một cách đa dạng là hoại gan, ung thư ruột, hoặc giang mai, đã hoàn toàn chế ngự ông. Hê-rô-đê Cả lui về chữa trị ở Ca-lia-hô-ê (Callirhoe), một suối nước nóng nổi tiếng phía đông Biển Chết.

      Trong khi nằm chờ chết tại dinh thự của mình ở Giê-ri-khô, Hê-rô-đê Cả đưa ra một mệnh lệnh điển hình cho nhân cách của ông. Ông chỉ thị cho cô em Sa-lô-mê tống giam các thủ lĩnh (kỳ mục) quan trọng nhất của dân Do Thái, cùng với mệnh lệnh hành quyết họ ngay khi vừa nhận được tin ông từ trần. Mục đích của hành động ấy là gì? Đó là để dân Do Thái có lý do khóc tang khi đại đế của họ chết.

      Từ xà-lim tù ngục, An-ti-pa-tê đang chờ thụ án tử hình cũng nghe tin về cái chết đang lơ lửng của phụ hoàng. Hắn bèn ra sức đút lót cho cai ngục để được họ thả ra. Nghe tin đó, cơn thịnh nộ của Hê-rô-đê Cả lại bùng lên, ông ra lệnh thi hành bản án lập tức. Kế đó, thêm lần nữa đại đế thay đổi di chiếu. Ông đặt đứa con trai khác ông có với bà  Man-tha-kê lên kế vị mình, đó là Ác-khê-lao (Archelaus). Còn An-ti-pa được ông thưởng cho miền Pa-ra-ê và miền Ga-li-lê, trong khi đứa con trai Phi-líp (mà ông có với bà vợ thứ năm trong mười bà vợ, là Clê-ô-pát người Giê-ru-sa-lem) nhận vùng thượng Ga-li-lê và mấy phần của Sy-ri-a (Lc 3:1). Cô em Sa-lô-mê mưu trí nhận những dải đất lớn rộng trong đồng bằng duyên hải và Thung lũng Gio-đan cùng với món tiền trợ cấp hào sảng.

      Năm ngày sau hôm xử tử hoàng tử An-ti-pa-tê, phụ hoàng Hê-rô-đê Cả qua đời. Nhiều học giả tin rằng vì không chịu nổi sự hành hạ của bệnh tật, Hê-rô-đê tự sát. Ác-khê-lao tổ chức đám ma hào nhoáng; thi hài của nhà vua được bọc trong vải màu tía vương giả, trên đầu đội vương miện và trong tay cầm vương trượng. Đi theo linh cửu rất đông người, gồm thân nhân, ngự lâm quân, với đầy đủ hoàng tộc tới tận lăng mộ ở Hê-rô-đi-um (Herodim), phía nam Bê-lem.

SỰ GIÀU CÓ CỦA HÊ-RÔ-ĐÊ

      Người ta ước lượng rằng lợi tức hằng năm của Hê-rô-đê Cả ít nhất là 13 triệu đồng đi-na, tương đương với 55.25 tấn vàng/bạc. Sự giàu có của ông đến từ nhiều nguồn: thuế sản xuất nông nghiệp, thí dụ ba hay bốn phần mười thóc lúa, hay một nửa hoa quả. Trước khi bị mất vào tay nữ hoàng Clê-ô-pát, Hê-rô-đê Cả làm chủ các đồn điền nhủ hương ở Giê-ri-khô (Jericho) và E-in Gê-đi (Ein Gedi), chế tạo nước hoa từ một loại cây bí ẩn mà trị giá tính theo trọng lượng của vàng. Hê-rô-đê Cả thu lệ phí và thuế của các đoàn thương buôn đường xa mang hương liệu giống như hương trầm và nhựa thơm từ A Rập băng ngang lãnh thổ của ông để ra tới hải cảng ở Ga-da (Gaza). Đa phần sinh hoạt kinh tế của Giu-đê đặt cơ sở trên sự hiện hữu của Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Chim bồ câu và các thú vật khác được nuôi để làm của tế lễ và bán ở các chợ trong kinh thành Giê-ru-sa-lem cùng với hương trầm và những vật dụng khác mà khách viếng thăm và người hành hương cần tới; chúng đều bị Hê-rô-đê Cả đánh thuế.


TRIỀU ĐẠI BA ANH EM NHÀ HÊ-RÔ-ĐÊ

      Giai đoạn ấu nhi của Chúa Giê-su nằm trong thời kỳ chuyển tiếp giữa Hê-rô-đê Cả, tức là Đại đế Hê-rô-đê, và con trai của ông là Hê-rô-đê Ác-khê-lau. Chúa Giê-su ra đời khoảng năm 6 TCN. Hê-rô-đê Cả qua đời năm 4 TCN. Tin Mừng theo thánh Mát-thêu 9:22 ghi nhận rằng thánh Giu-se sợ Ác-khê-lau, không dám ở miền Giu-đê phương nam, nên phải đưa gia đình lên ở miền Ga-li-lê phương bắc. Ông sợ là phải vì triều đại của Ác-khê-lau bắt đầu bằng một cuộc tàn sát thần dân. Cái chết của Hê-rô-đê Cả gây nên tâm trạng sảng khoái của hàng ngàn tín đồ hành hương đổ về Giê-ru-sa-lem dịp Lễ hội Vượt qua năm đó. Sợ nhân đó bùng nổ một cuộc nổi loạn, Ác-khê-lau nông nổi huy động binh lính đàn áp dân chúng. Đường phố Giê-ru-sa-lem đẫm máu tín đồ Do Thái giáo bị giết.

      Sử gia Giô-xê-phút ghi lại rằng Ác-khê-lau đã làm điều nghịch với Lề luật Do Thái giáo. Ông ly dị vợ để kết hôn với Gla-phy-ra (Glaphyra), quả phụ của người anh bị xử tử là A-lê-xan-đê và là mẹ ba đứa con của A-lê-xan-đê. Ác-khê-lau cũng truất quyền hai vị thượng tế nhằm kiểm soát sinh hoạt chính trị của Đền thờ. Toàn xứ sở trở nên bức bối khi Ác-khê-lau đi Rô-ma để được Hoàng đế La Mã xác nhận sự nối ngôi của mình. Tại miền Ga-li-lê, một người có tên là Giu-đa (Judas) khích động bạo loạn. Thân phụ của Giu-đa là Hê-dê-ki-a (Hezekias) bị Hê-ro-đê Cả giết lúc mới bắt đầu triều đại ông. Sự bất ổn ấy bị dập tắt nhờ bàn tay bạo tàn dữ dội của Va-rút (Varus), tổng trấn Sy-ri-a, và kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đốt.

      Một phái đoàn đại biểu dân Do Thái đi Rô-ma để yết kiến Au-gút-tút, bào chữa cho vụ việc. (Có thể tìm thấy dấu vết của biến cố này nơi Lc 19:11-15 trong dụ ngôn của Chúa Giê-su về một ông vua bị thần dân oán ghét). Để giải quyết, Au-gút-tút ra lệnh chia nhỏ vương quốc Ít-ra-en trước đây của Hê-rô-đê Cả ra làm ba như Pom-pê-i làm trước đây. Ông để cho Hê-rô-đê Ac-khê-lau cai trị miền Giu-đê, Sa-ma-ri-a và I-đu-mê-a với tước tiểu vương, với lời hứa sẽ phong tước vương nếu tác phong của hắn xứng đáng tước đó.

      Nhưng sau đó chẳng bao lâu, qua năm 6 TCN, người La Mã tước hết mọi cái Ác-khê-lau sở hữu, đày ông tới Vienna, và áp đặt nền cai trị trực tiếp của họ lên Giu-đê. Giu-đê trở thành một tỉnh do tổng trấn Cô-pô-ni-út (Coponius) cai trị, trong khi tổng trấn Qui-ri-ni-út (Quirinius) cai trị Sy-ri-a.

      Một trong những hành động đầu tiên của các nhà cai trị mới ấy là tổng kiểm tra dân số, được nhắc nhở tới trong câu chuyện Giáng sinh, buộc thánh Giu-se và Đức bà Ma-ri-a phải trở về chánh quán ở Bê-lem để đăng ký. Chống đối việc kiểm tra dân số là người Dê-lô (Zealots) cuồng nhiệt, một phong trào cách mạng có gốc rễ ở thị trấùn Cao nguyên Gô-lan (Golan) tại Gam-la (Gamla).

      Trong khi đó, ở miền bắc, Hê-rô-đê Phi-líp cai trị rất khôn ngoan và lâu dài. Ông xây dựng thành phố Xê-da-rê Phi-líp (Ceasarea Philip), mở rộng Bét-sai-đa (Bétsaiđa), quê nhà của các Tông đồ Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê và An-rê thành một đô thị, tức là một thành phố kiểu Hi Lạp, và đổi tên nó thành Giu-li-át (Ju-li-a) để vinh danh bà vợ của Hoàng đế La Mã Au-gút-tút. Được đánh giá là bạn hữu của người La Mã,  Phi-líp cho đúc chân dung hai hoàng đế Au-gút-tút và Ti-bê-ri-út (Tiberius) lên mặt đồng tiền Do Thái đầu tiên. Ông chết năm 33/34 SCN, không con trai, và đất đai của ông bị chuyển cho nhà cầm quyền La Mã trực tiếp tạm thời xử lý.

      Hê-rô-đê An-ti-pa là một Hê-rô-đê thường được nhắc tới nhất trong Tin Mừng. Trong thời ông cai trị, Gio-an Tẩy giả bắt đầu sứ vụ của mình. Giống với ông anh Phi-líp, An-ti-pa thừa hưởng thiên hướng xây cất thành phố của phụ hoàng Hê-rô-đê Cả. Ông tái thiết và mở rộng thành phố Xê-phô-rít (Sepphoris) đã bị tàn phá trong cuộc hành quân của Va-rút. Ông lập nên thành phố Ti-bê-ri-a (Tiberias) và đặt tên ấy để vinh danh vị hoàng đế La mã kế vị Au-gút-tút. Việc xây dựng Ti-bê-ri-a là nguyên nhân cuộc tranh chấp giữa An-ti-pa và dân chúng khi ông vi phạm lề luật Do Thái bằng cách xây dựng nó trên một địa điểm nghĩa trang.

      Đầu tiên, An-ti-pa kết hôn với con gái của A-rê-ta (Aretas) vua Na-ta-bê xứ Pê-tra (Petra), rồi ông lấy Hêâ-rô-đi-a (Herodias), vợ của người anh cùng cha khác mẹ là Hê-rô-đê Phi-líp. Hành động phi pháp ấy đưa tới việc bắt giam Gio-an Tẩy giả khi vị ngôn sứ này quở mắng ông. Rồi nghe lời mê hoặc của Sa-lô-mê, con gái của Hê-rô-đi-a, An-ti-pa ra lệnh chém đầu Gio-an. Chúa Giê-su đã mô tả một cách nổi bật cá tính của An-ti-pa là “con cáo ấy” (Lc 13:32). Cuối cùng, ngài giáp mặt An-ti-pa, thách thức vị vua miền Ga-li-lê ấy bằng sự im lặng của mình khí ông ta muốn chất vấn ngài (Lc 23:6-12).

      Vào năm 26 SCN, trong thời cai trị của Hoàng đế Ti-bê-ri-út, một quan tổng trấn mới đảm trách Giu-đê, đó là nhà quí tộc Pong-ti-ô Phi-la-tô (Pontius Pilate), người phán xét và kết án đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá vào dịp Lễ hội Vượt qua định mệnh trong lịch sử.

      Người Do Thái oán hận Phi-la-tô khi ông ra sức áp đặt các định chuẩn theo hình ảnh La Mã tại Giê-ru-sa-lem và cướp bóc kho tàng Đền thờ để thanh toán chi phí xây dựng cống thoát nước. Vì hành vi sai trái ấy, ông nhận được lệnh phải đích thân trình diện Hoàng đế La Mã, nhưng trước khi ông về tới Rô-ma, hoàng đế Ti-bê-ri-út đã băng hà, được nối ngôi bởi Ca-li-gu-la (Caligula) điên loạn.

      Tại Rô-ma, Ca-li-gu-la có một người bạn là Hê-rô-đê Ác-rip-pa (Agrippa), cháu nội của Hê-rô-đê Cả, con của hoàng tử A-ris-tô-bu-lút đã bị phụ vương hành quyết. Có mối thù nghịch lộ liễu với An-ti-pa, Ác-rip-pa trước đây cảm thấy mình không nơi nương tựa trong dòng chảy của các biến cố ở Ít-ra-en. Nhưng giờ đây, ông thấy mình có cơ hội nhập cuộc. Ông tố cáo An-ti-pa với Hoàng đế Ca-li-gu-la về việc chuẩn bị phát động chiến tranh chống La Mã với sự trợ giúp của người Pác-thi-a. An-ti-pa lật đật đi Rô-ma để thanh minh những cáo giác của Ác-rip-pa về tội bội phản, nhưng vô hiệu. Tài sản của An-ti-pa bị tịch thụ và ông phải sống trong cảnh lưu đày. He-rô-đê Ác-rip-pa I trở thành vua ở phần đất phương bắc, nơi Hê-rô-đê Phi-líp từng cai trị trước đây.

      Khi Ca-li-gu-la bị ám sát năm 41 SCN, Ác-rip-pa trình diện triều đình La Mã với nỗ lực xoa dịu cuộc khủng hoảng sau chót trong vương quốc của mình, vì trước đây ông đã nóng vội đặt tượng vị hoàng đế điên khùng quá cố Ca-li-gu-la trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Và ông kịp thời chuyển lòng trung của mình qua vị tân Hoàng đế Clau-đi-út (Claudius).

      Sách Công vụ Tông đồ 12:1-3 ghi chép rằng chính Ác-rip-pa I đã ra lệnh chém đầu Tông đồà Gia-cô-bê, anh của Gio-an, và bắt giam Phê-rô. Sử gia Giô-sê-phút mô tả cái chết của Ác-rip-pa I (Do Thái thời cổ 19:8:2) vào năm 44 SCN, và nó cũng được ghi chép trong sách Công vụ Tông đồ 12:21-22 rằng: “Đến ngày hẹn, vua (Hê-rô-đê) Ác-rip-pa mặc cẩm bào, ngồi trên ngai, hùng hồn diễn thuyết cho họ nghe [dân thành Tia (Tir) và Xi-đôn (Sidon)]. Dân chúng lớn tiếng hoan hô rằng ‘Đây là tiếng của thần linh chứ không phải của người phàm trần’. Nhưng ngay lúc đó thiên sứ của Chúa đánh phạt nhà vua, vì ông không tôn vinh Thiên Chúa. Nhà vua bị giòi bọ rúc rỉa nên tắt thở.”

      Vì vào lúc đó, con trai của ông là Ác-rip-pa II (27/28- k.?93/94) còn thiếu niên, chưa thể kế vị, nên lãnh thổ của ông bị chuyển cho người La Mã trực tiếp cai trị. Cũng do bởi sự quản trị sai lầm của tổng trấn An-bi-nút (Albinus) trong thời gian đó mà các phong trào kháng chiến như người Dê-lốt và người Sca-ri (Scari) sở đắc được sức mạnh.

      Tới năm 50 SCN, hoàng tử Hê-rô-đê Ác-rip-pa II lên ngôi, và sự cai trị của người Do Thái được phục hồi. Nhưng chủ nhân mới là quan tổng trấn La Mã Phê-lích (Felix) không chứng tỏ được mình có khả nắng gắn kết một xã hội Do Thái chia rẽ. Thực tế, ông còn khuyến khích hành động phá nát nhanh chóng hơn trong giai đoạn chuyển tiếp này. Nhằm trả thù những sỉ nhục có thật hay tưởng tượng, Phê-lích thuyết phục một trong các người bạn của Thượng tế Giô-na-than (Jonathan) đem đạo tặc [quân khởi nghĩa] tới giết Giô-na-than. Theo tường trình của Giô-sê-phút, những “đạo tặc” ấy “sau thời gian lễ hội đã đi [lên Đền thờ] với sự an toàn tối đa, trong người giấu vũ khí... lẫn mình vào đám đông, và cắt cổ nhiều kẻ thù của họ... (Do Thái thời cổ 20:8-3).

      Người Do Thái và người Dân ngoại sống ở Xê-da-rê bắt đầu tranh cãi về vấn đề thẩm quyền trong thành phố này, Tới khi người Do Thái đích thân cam đoan trung thành với Rô-ma, mới ngăn được cuộc tàn sát của lính La Mã. Hai phe trong hàng ngũ tư tế tranh chấp nhau dữ dội. Người Dê-lô cũng ngày càng trở nên không kiểm soát nổi, bất chấp sự kiện trong thời gian này có tới hàng ngàn người bị trừ khử.

      Không khí nứt nẻ với những căng thẳng chính trị. Vì vậy, khi Phao-lô bị các tín đồ Do Thái giáo Tiểu Á (A-xi-a) về hành hương bắt giữ lúc ông phát biểu trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem, như được mô tả trong Cv 21, lính La Mã nhảy xổ vào hành động. Từ Pháo đài An-tô-ni-a tọa lạc gần đó, họ ào tới túm lấy ông. Trong lúc thẩm vấn Phao-lô, viên chỉ huy trưởng cơ binh nghĩ rằng ông có thể là tên phiến loạn Ai Cập phát động cuộc nổi loạn,  mà “trước đây, dẫn bốn ngàn sát thủ ra sa mạc” (Cv 21:38). Giô-sê-phút cũng có nhắc tới nhân vật cứu thế này, người đã biến mất một cách bí ẩn sau khi Phê-lích tàn sát những kẻ đi theo ông. Phao-lô bị tạm giam và giải tới bộ chỉ huy của chính quyền đế quốc La Mã ở Xê-da-rê. Suốt hai năm, ông bị giam giữ ở đó, cho tới khi Phê-lích bị triệu hồi và thay thế bởi Phét-tô (Festus).

      Phét-tô và Ác-rip-pa II nhận ra mình là đồng minh trong nỗ lực duy trì trật tự của một tỉnh (của Đế quốc La Mã) đang bị rạn vỡ một cách nguy hiểm. Để minh hoạ mối quan hệ của đôi bên, Giô-sê-phút kể lại một câu chuyện dung tục về phòng ăn của Ác-rip-pa II được nhà vua đích thân thiết kế với cửa lớn nhìn xuống Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Người Do Thái cho rằng việc Ác-rip-pa II có khả năng nhìn xuống Đền thờ là không thích đáng, nên họ xây một bức tường chận tầm nhìn lại. Phét-tô ra lệnh triệt hạ bức tường đó. Người Do Thái gởi kiến nghị lên Hoàng đế Nê-rô về vấn đề này. Nê-rô cho phép họ giữ bức tường lại, có thể là vì ảnh hưởng của  Po-pa-ê (Popaea) vợ ông, một người giống như viên bách đội trưởng vô danh ở Ca-phác-na-um (Capernaum), cùng vô số những kẻ vô danh khác biết kính sợ thượng đế và là người Dân ngoại công chính.

      Và dĩ nhiên cũng chính Phét-tô cùng Ác-rip-pa II đó mà Phao-lô xuất hiện trước mặt họ, phát biểu một diễn từ sôi nổi về Ki-tô giáo, được ghi lại trong Công vụ 26. Cũng chính trong thời cai trị của Ác-rip-pa II, dự án xây dựng Đền thờ nguy nga bị chấm dứt, khiến cho mười tám ngàn người lao động thình lình mất công ăn việc làm. Theo nhiều học giả, sự thất nghiệp này cũng là một thành tố góp phần vào sự bùng nổ cuộc khỏi nghĩa sắp xảy ra.

      Năm 66 SCN trong thời cai trị bạo ngược của tổng trấn Flô-rút, là năm định mệnh bắt đầu cuộc Đại Khởi nghĩa. Flô-rút ra lệnh cho binh lính La Mã tiến vào chợ Phố Thượng (Upper City) trong kinh thành Giê-ru-sa-lem, cướp bóc và vào từng nhà, giết cư dân. Trong ngày đó, có khoảng 3,600 người bị roi vọt và đóng đinh, thậm chí không cần biết người đó có là công dân La Mã hay không. Nổi loạn bùng lên ở Xê-da-rê khi người ngoại đạo làm lễ cúng tế một con chim bồ câu ngay trong sân một hội đường. Một cách điển hình, Flô-rút ném các kỳ mục cộng đồng Do Thái vào nhà tù, và cho phép các người ngoại đạo khiêu khích ấy được ra về không chút hề hấn.

      Cảnh giác con mắt canh chừng và không chấp nhận của Rô-ma, Flô-rút đề nghị rút binh lính của ông từ Giê-ru-sa-lem đi Xê-da-rê. Ác-rip-pa cũng ra sức làm dịu tình hình. Nhưng quá ít và đã quá trễ. Khi dân chúng khám phá ra rằng đức vua của mình chỉ tính chuyện vuốt ve bộ lông xù của người La Mã và chờ cho tới khi Rô-ma thay Flô-rút, họ bèn trục xuất vua Ác-rip-pa II ra khỏi kinh thành Giê-ru-sa-lem.

      Hôm sau, có một khúc quặt quan trọng đưa tới điểm không thể trở lui. Nó diễn ra khi dân chúng thuyết phục được một số tư tế Đền thờ từ khước lễ tế thường lệ của Hoàng đế La Mã. Đối với người La Mã, đó là một sỉ nhục khó có thể dung tha. Thế rồi tới Tháng Chín năm 66, con trai của Giu-đa xứ Ga-li-lê, một người nổi loạn trứ danh (Cv 5:37), là Me-na-hem (Menahem), chiếm Ma-sa-đa trong tay quân La Mã. Ông quay về Giê-ru-sa-lem “trong cung cách một đức vua” (Chiến tranh Do Thái 2:17:8) và giết vị thượng tế Đền thờ, bị ông xem là người có hành động thoả hiệp với La Mã. Khi Mê-na-hem cả gan xuất hiện nơi đền thờ, mình mặc hoàng bào vương giả, ông lập tức bị giết bởi người ủng hộ vị thượng tế vừa bị ông giết. Nhưng đồng đảng còn lại của Mê-na-hem trốn thoát tới Ma-sa-đa. Ở đó, họ chịu sự lãnh đạo của Ê-la-da Ben Da-ir (Elazar Ben Za'ir), một thân nhân của Me-na-hem, để tiếp tục cuộc nổi loạn.

      Thế rồi giữa người La Mã và người Do Thái diễn ra nhiều đợt thương thảo khác trong đó người La Mã cho kẻ thù của mình cơ hội chót để đầu hàng. Nhưng không có điểm lùi nữa. Các lực lượng khác tham gia với vị thượng tế mới, giết quân La Mã khi các cuộc hòa đàm kết thúc.

      Chiến trận diễn ra thường xuyên hơn và dữ dội hơn. Két-ti-út Gan-lút (Cestius Gallus), chỉ huy trưởng quân La Mã ở mặt trận Giê-ru-sa-lem bị đánh bại bởi Si-mê-on Bar Gi-ô-ra (Simeon Bar Giora), một thủ lĩnh có sức lôi cuốn của quân khởi nghĩa, tại cửa ngõ chiến lược Bet Horon của thành Giê-ru-sa-lem. Bar Gi-ô-ra, một khuôn mặt cứu thế, tiếp tục chiến đấu để kiểm soát Giê-ru-sa-lem, chống với kẻ ganh đua mình là Gio-an Gít-ca-la (John Giscala), cho tới giây phút tướng Ti-tút (Titus) chiếm được thành ấy năm 70 SCN.

      Qua năm sau, Két-ti-út bị Vét-pa-si-an (Vespasian) thay thế. Cùng với con trai là Ti-tút, Vét-pa-si-an đổ bộ lên A-crê (Acre), tiến quân vào miền Ga-li-lê với kỳ vọng chiến thắng mau lẹ. Nhưng ông lầm. Ông bị buộc phải bao vây thị trấn Dô-ta-pa-ta (Jotapata) trên cao nguyên Ga-li-lê, là nơi quân khởi nghĩa chiến đấu gan dạ để mong sống sót, nhưng rồi cuối cùng phải đầu hàng. Cuộc bao vây Dô-ta-pa-ta kéo dài 47 ngày, năm 67 SCN.

      Từ cuộc bao vây Dô-ta-pa-ta, có một tù nhân của La Mã không những sống sót mà còn được ân thưởng, đó là viên tướng quí tộc ngoài ba mươi tuổi có tên là Dô-sê-phút con của Mát-ta-thi-a. Thay vì tự sát như giao ước giữa những người cuối cùng phòng thủ thị trấn, ông tìm cách giữ lại tính mạng mình. Giô-sê-phút đầu hàng, và với sự nhanh trí táo bạo ông nói tiên tri rằng Vét-pa-si-an sẽ trở thành Hoàng đế La Mã. Khi lời tiên đoán ấy thành sự thật, tương lai của Giô-sê-phút được bảo đảm. Ông được lấy theo họ của Hoàng đế - Fla-vi-út - và được ban quyền công dân La Mã. Chiến tranh kết thúc, Giô-sê-phút được mang đi Rô-ma. Tại đó, ông soạn các bộ sử của mình, và từ trần khoảng năm 100 sau C.N.

      Là tác giả của các cuốn Chiến tranh Do Thái (Wars of the Jews), Do Thái thời cổ (Antiquities of the Jews), và tiểu sử đời mình, Giô-sê-phút để lại cho chúng ta lịch sử niên đại về cuộc khởi nghĩa mà ông từng góp phần lãnh đạo. Và đó cũng là nguồn thông tin độc nhất về nhiều biến cố trong giai đoạn này.

      Vét-pa-si-an tiếp tục theo đuổi chiến trận ở miền Ga-li-lê, chiếm khu vực quanh Biển hồ Ga-li-lê, Ti-bê-ri-a, Gam-la. Và cuối cùng chỉ huy trưởng nghĩa quân là Gio-an Gít-ca-la  trốn thoát về tiếp tục chiến đấu ở kinh thành Giê-ru-sa-lem.

GIÊ-RU-SA-LEM SỤP ĐỔ

      Năm 68 SCN, tin tức cái chết của Hoàng đế Nê-rô truyền tới Vét-pa-si-an. Ông phái Ti-tút, con trai mình, với Ác-rip-pa đi Rô-ma. Để thuận buồm cho chuyến hải hành, trời nổi cơn gió mạnh. Trong một năm, tại Rô-ma chất ngất những biến cố chóng mặt. Ba Hoàng đế nối ngôi nhau liên tiếp nhau băng hà. Quân đội trung thành với Vét-pa-si-an tôn ông lên ngôi vua. Vát-pa-si-an rời chiến trường Giu-đê, về Rô-ma tiếp nhận vương quyền. Ông để Ti-tút ở lại tiếp tục cuộc bao vây thành Giê-ru-sa-lem.

      Dù bị tàn hại bởi chiến cuộc dai dẳng, quân Do Thái phòng thủ thành công trong việc giữ cho lính La Mã bị sa lầy tại chỗ. Lúc này, Ti-tút bao vây Giê-ru-sa-lem khắp bốn mặt thành. Ông điều quân áp sát, theo hướng bắc, nơi không có các lũng sâu ngăn cản đà tiến. Dựng trại trên núi Scô-pút (Scopus), Ti-tút hạ lệnh vặt trụi lá mọi khu rừng chung quanh thành và san bằng các mỏm đá.

      Máy công thành của La Mã cùng rất đông binh lính di chuyển tới sát tường thành. Trên bờ thành, quân phòng thủ Do Thái cầm đuốc chạy lui chạy tới, bắn tên xuống lính La Mã. Một số quân Do Thái gan dạ, xông ra, tấn công các máy công thành, gây thiệt hại cho chúng được chừng nào hay chừng nấy trước khi bản thân mình bị giết. Một số máy công thành bốc cháy như những bó đuốc lớn. Trại binh La Mã hoảng loạn, Ti-tút phải khích lệ binh sĩ bằng cách đích thân đi quanh trại tiếp ứng; ông cho đẩy các tháp công thành ra bao vây. Cuối cùng, lính La Mã chọc thủng được tường thành phía bắc, vốn chỉ mới hoàn thành trước đó vài chục năm theo lệnh của Ác-rip-pa.

      Năm ngày sau, vòng thành cổ hơn ở bên trong sụp đổ, Nhưng giờ đây, lính La Mã tấn công thấy mình lâm vào tình thế khủng khiếp. Cư dân Do Thái Giê-ru-sa-lem chiếm thế thượng phong trong từng con hẻm nhỏ, giữa nơi thị tứ chật chội mà trận chiến lúc này trở nên khốc liệät tột độ. Ti-tút làm hết sức mình để bảo vệ binh sĩ. Ông chạy tới chạy lui trên các mái nhà để tỉa bớt quân phòng thủ Do Thái bằng chính vũ khí của mình.

      Đó cũng là thời điểm Ti-tút tuyên bố ngưng chiến, để cho quân Do Thái phòng thủ có cơ hội tự họ đánh giá tình hình. Đã tới ngày phát lương cho binh sĩ, Ti-tút dùng nó như một dịp để thêm lần nữa phô trương sức mạnh và cổâ vũ tinh thần lính La Mã. Theo tục lệ đã định, trước khi lĩnh lương, binh sĩ mặc áo giáp, chải chuốt ngựa, và xếp hàng để nhận tiền lương. Từ trên tường thành, vô số cư dân Giê-ru-sa-lem đứng im lặng, tò mò theo dõi nghi thức đáng xem ấy. Sinh hoạt này diễn ra suốt bốn ngày.

      Sau đó, Ti-tút lại quay về với chiến dịch bao vây đại nội, nhưng đặc biệt lần này, mục tiêu là Pháo đài An-tô-ni-a và Đền thờ nằm nghiêng ở mé bên kia mà Pháo đài đứng án ngữ. Quân phòng thủ Do Thái liên tục tìm ra phương cách mới để quấy nhiễu lính La Mã. Đã tới lúc Ti-tút sử dụng “vũ khí bí mật” của mình, đó là Giô-sê-phút. Viên tướng hàng binh này được đưa ra trước mặt quân phòng thủ, hùng hồn và tha thiết thuyết phục người Do Thái đầu hàng bằng những lập luận có thể nhận thức được. Nhưng cuộc diễn thuyết của Giô-xê-phút chẳng mang lại kết quả nào.

      Kể từ lúc đó, tình hình trong đại nội Giê-ru-sa-lem càng lúc càng tuyệt vọng. Bệnh và đói hoành hành khắp mọi chỗ. Mỗi ngày có tới năm trăm người đào thoát, hay nhiều hơn nữa. Kẻ nào lính La Mã bắt được, thì bị tra tấn và rồi bị đóng đinh lên thập giá, trong ánh sáng ban ngày, dưới mắt của cư dân trong thành.

      Mùa đông tới trong đại nội Giê-ru-sa-lem bị vây khốn. Suốt tháng Ba, lính La Mã đắp đường dốc để leo lên Pháo đài An-to-ni-a. Nhưng Gio-an Gis-ca-la và quân của ông đột kích xuống, phá hoại dàn khung bằng gỗ và triệt hạ các tầng cấp bằng đất. Họ dùng hắc tín tưới lên chúng, châm lửa đốt khiến cho lính La Mã dường như chẳng dám chường mặt ra.

      Cuối cùng, Ti-tút vẫn chiếm được Pháo đài An-tô-ni-a nhưng không phá vỡ nổi Đền thờ. Cuộc cận chiến tay đôi làm mất mạng nhiều lính La Mã. Choáng váng và hoang loạn vì thịnh nộ, Ti-tút ra lệnh triệt hạ toàn bộ tường thành bọc quanh Giê-ru-sa-lem, và quyết chiến từng tấc đất theo từng bước chân lấn tới. Thành đô vô vọng bị nạn đói ăn tươi nuốt sống, khắp mọi nhà và mọi con hẽm trong thành la liệt xác chết. Ti-tút ra lệnh san bình địa Pháo đài An-tô-ni-a, đắp bậc thềm thật rộng ở góc tây bắc Đền thờ, từ Pháo đài An-tô-ni-a thẳng tới các sân Đền thờ.

      Máy chọc thủng được đưa tới nhưng vô hiệu, không dộng vỡ nổi các cánh cửa bọc bạc kiên cố. Tới đó, Ti-tút ra lệânh dùng lửa đốt các cổng Đền thờ. Lớp bạc bọc cánh cửa bị nung chảy, lòi gỗ rắn đặc bên trong, và cửa bắt đầu cháy. Lính La Mã tràn vào, đạp lên lớp xà-bần đang cháy thành than, nhưng chính ngọn lửa tự nó đốt sạch những gì còn lại.

      Thực tế, Ti-tút nói Đền thờ bị cháy rụi nằm ngoài ý muốn của ông. Xâm nhậâp được các sân bên trong Đền thờ, lính La Mã bị quân phòng thủ tập kích dữ dội. Trong khi đôi bên mãi miết đánh nhau, lửa bùng lên, không thể nào dập tắt. Khi lính La Mã rượt được quân Do Thái ra ngoài các sân Đền thờ, một lính La Mã chụp một khúc củi đang cháy, một lính khác nâng lên cao, ném vào một cửa sổ. Lửa lẹ làng cháy lan xuống hành lang bao quanh mé bắc cung thánh nội điện, và chẳng bao lâu, lửa nuốt trọn quần thể Đền thờ Giê-ru-sa-lem.

      Không ai biết được Ti-tút nghĩ gì khi ông nhận ra ngọn lửa đã vượt tầm kiểm soát. Nhưng có một điều chắc chắn là: ông hiểu một cách minh bạch rằng Đền thờ là thành trì của đức tin Do Thái giáo. Và chừng nào nó còn đứng vững trong vinh quang, thì chừng đó tên tuổi của ông vẫn còn trong cõi quên lãng.

      Trong khi ngọn lửa nuốt trọn cung thánh và các sân Đền thờ, những khối đá vôi khổng lồ của tường thành Đền thờ nổ tung thành từng mảnh, văng ra khỏi vị trí, rơi xuống vệ đường nằm bên dưới khoảng năm chục mét. Dô-sê-phút bất tử hóa quang cảnh ấy bằng lời mô tả: “Trong khi khắp nơi lửa cháy ngùn ngụt, bao phủ toà nhà thiêng liêng... mười ngàn người bị bắt giết; trẻ em và người già, người phàm tục và tư tế... cũng như những người năn nỉ xin tha mạng cùng với những người quyết chiến để bảo vệ tính mạng mình. Lửa cũng mang đi thật xa, tạo âm thanh vang dội cho tiếng gào thét thê thiết của những người bị giết; Vì ngọn đồi Đền thờ cao và tường thành Đền thờ to lớn quá, nên người ta nghĩ rằng toàn bộ kinh thành Giê-ru-sa-lem đang bốc cháy. Không ai có thể tưởng tượng nổi cái gì đó lớn lao hơn hoặc khủng khiếp hơn âm thanh vang dội ấy. Và giờ đây lính La Mã đang xét đoán rằng thật vô ích nếu chừa lại cái gì đó liên quan tới tòa nhà thiêng liêng này, mọi cái mọi nơi đã cháy rụi...” (Chiến tranh Do Thái 6:5:1)

      Trong khoảnh khắc đó, người Giê-ru-sa-lem hiệp nhất trong đức tin vào Chúa Giê-su cảm thấy gì? Tụ họp nhau trong nhà mình ở những nơi nằm ngoài vùng binh lửa, và khi cầu nguyện cho gia đình họ hàng cùng quốc gia mình trong những giờ tối đen này, có thể họ nhớ lại lời Chúa Giê-su đã nói: “Vậy, khi anh chị em thấy 'sự ghê tởm căm thù cực độ và tan hoang' diễn ra tại chốn thiêng liêng, mà ngôn sứ Đa-ni-en đã nói đến... lúc đó ai ở miền Giu-đê hãy trốn lên núi... Vì lúc đó sẽ có cơn gian nan khốn khó tới độ từ thuở khai thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra...” (Mt 24:15-21) Thế nhưng được trang bị bằng đức tin, họ có khả năng đối mặt với tương lai bất định. Giống như hầu hết người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem, dù trốn chạy khỏi thành đô điêu tàn, họ xây dựng lại các cộng đồng của mình ở những nơi khác. Nhiều người di chuyển đến Pen-la (Pella), một thành phố trong miền Đê-ca-pô-lít (Decapolis) bên kia sông Gio-đan mà con số ngày càng gia tăng trong những năm sắp tới.

      Cuộc chiến Giê-ru-sa-lem diễn ra bốn năm, tính từ khi nghĩa quân Do Thái nắm quyền chủ động và phòng thủ kinh thành năm 66 SCN tới khi thất thủ và bị triệt hạ năm 70 SCN. Sáu mươi lăm năm sau, năm 135 SCN, thêm một cú đánh nữa giáng xuống, tiếp liền cuộc Cách mạng thất bại của Si-môn Bar Kóc-ba (Simon Bar Kochba),  những người Do Thái còn lại bị lưu đày ra miền Ga-li-lê phương bắc và ở vùng đất quá bên kia. Trong những ngày âáy tên Giê-ru-sa-lem bị đổi thành một cái tên ngoại giáo, gọi là A-ê-li-a Ca-pi-tô-li-na (Aelia Capitolina), nhằm vinh danh Hoàng đế La Mã Ha-đri-an (Hadrian)và thần Du-pi-te (Jupiter).

      Nhiều nơi, các đền thờ ngoại giáo được xây lên ngay bên trên địa điểm thiêng liêng của Ki-tô giáo hoặc Do Thái giáo, với nỗ lực phá hủy hoàn toàn mối liên hệ của đức tin này với các linh địa của nó. Đối với nhiều người, có vẻ như người ngoại giáo sẽ cai trị mãi mãi. Nhưng rồi hai thế kỷ sau, nghĩa là chỉ một nháy mắt của lịch sử, lối sống ngoại giáo đã biến mất khỏi Đất Thánh khi Đế quốc La Mã tự nó trở thành Ki-tô giáo. Mĩa mai thay, di chỉ lớn lao ngoại giáo thay vì bị quét sạch khỏi ký ức tại nhiều nơi chúng tọa lạc ở linh địa, lại được tiếp tay bảo tồn.

      Đức tin vào Thiên Chúa độc nhất đã khải hoàn. Trong nhiều thành phố, thị trấn mà Chúa Giê-su từng giảng dạy và làm phép lạ, các hội đường và các giáo đường được dựng lên bên cạnh nhau, chôn vùi bên dưới chúng các đền thờ ngoại giáo. Suốt nhiều thế kỷ sắp tới, Do Thái giáo và Ki-tô giáo phát triển một cách tự nhiên dọc theo những lối đi của mỗi tôn giáo, tuy thế cả hai tiếp tục được nuôi nấng và gắn bó nhau bằng những gốc rễ chung mang tính di sản và lịch sử.

(Trích: Thế giới thời Tân Ước)

Tác giả: