Thẻ căn cước của kito hữu
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- JM. Lam Thy ĐVD.
THẺ CĂN CƯỚC CỦA KI-TÔ HỮU (CN VI TN-C)
Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI TN-C – Lc 6, 17.20-26) trình thuật về những mối phúc dành cho những kẻ tin và theo Chúa, cách riêng là những người được tuyển chọn làm Tông đồ. Họ sẽ được huấn luyện đặc biệt và ở bên cạnh Chúa Giê-su để tập việc. Hơn ai hết, họ cần phải am hiểu giáo lý của Người, để đến lượt họ sẽ phải loan truyền giáo lý ấy cho dân chúng. Giáo lý của Đức Ki-tô có những điểm đặc biệt giúp người nghe căn cứ vào đó mà làm phát triển những gì là đặc sắc nơi con người họ.
Trong bài giảng khai mạc sứ vụ của Chúa Giê-su, những điểm đặc biệt ấy được gọi là những Mối Phúc: Đó là những người nghèo khó, đang phải đói, đang phải khóc, vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Nói về những mối phúc thì không thể quên thánh sử Mát-thêu trình thuật về Tám Mối Phúc (nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, xót thương người, tâm hồn trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì sống công chính, vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa – Mt 5, 1-12).
Theo Đức cố Giám mục Bar-tô-lô-mê-ô Nguyễn Sơn Lâm (trich trong “Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia”), phải nói rằng cả thánh Lu-ca và thánh Mát-thêu đã ghi lại toàn bộ bài giảng của Đức Giê-su qua trung gian một bản văn đã có trước bản văn của các ngài. Bản văn này ghi 4 điều phúc cho kẻ nghèo, kẻ đói, kẻ khóc, và kẻ bị bắt bớ vì Đạo Chúa. Mát-thêu và Lu-ca cũng chép lại cả 4, nhưng cả hai muốn quảng diễn thêm. Mát-thêu thì thêm vào 4 mối phúc: hiền lành, xót thương người, tâm hồn trong sạch, xây dựng hoà bình. Còn Lu-ca thì thêm vào 4 điều đáng bị lên án (khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, những kẻ bây giờ đang được no nê, đang được vui cười, được mọi người ca tụng). Để được hưởng phúc thì người tín hữu phải thật sự tránh xa những điều đã bị lên án mà trở về với 4 điều phúc thật.
Quảng diễn những mối phúc cho người tín hữu hiểu và thực hành, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã giảng trong Thánh lễ sáng ngày 6/6/2016 tại Nhà nguyện Thánh Marta. Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Các mối phúc như những “hoa tiêu” chiếu sáng trên con đường của đời sống Ki-tô hữu, như một “chương trình hành động”, như một “giấy căn cước của Ki-tô hữu”. Nếu anh chị em tự hỏi mình làm thế nào tôi có thể trở thành một Ki-tô hữu tốt, thì đây là câu trả lời của Chúa Giê-su, một câu trả lời dẫn đến một thái độ đi ngược lại não trạng con người ngày nay rất nhiều.” Cuối bài giảng, ĐTC kết luận: “Tám Mối Phúc Thật đại diện cho “một chương trình sống” chính Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta. Tuy đơn giản nhưng rất cam go. Nếu chúng ta muốn tìm kiếm thêm, Chúa Giê-su còn chỉ cho chúng ta một điều khác đã được viết trong Tin Mừng: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 35-36). Với Tám Mối Phúc Thật – và nói chung, toàn bộ chương 25 sách Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu – người ta có thể sống một đời sống Ki-tô hữu thánh thiện.” (nguồn: Vatican.net).
Sống một đời sống thánh thiện để có được “giấy căn cước Ki-tô hữu” đích thực, chính là một ước mơ hạnh phúc mà con người luôn mong ước đạt được cách viên mãn. Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc là luôn biết cảm nhận, khám phá những điều mới mẻ từ cuộc sống; là hoài bão sáng tạo nên những giá trị mới; là thực hiện được những điều mình ấp ủ, ước mơ. Hạnh phúc là khi con người tìm ra và trân trọng những niềm vui, những giá trị giản dị từ cuộc sống. Nếu chỉ tìm hiểu về ý nghĩa hạnh phúc thì chỉ cần một động tác nhỏ (mở từ điển) là xong, nhưng để có được hạnh phúc đích thực thì chuyện không còn là đơn giản nữa.
Nói về hạnh phúc thì mỗi người một cách, mỗi người một quan niệm. Có người thì nói: “Tôi hạnh phúc vì tôi có được vợ đẹp con khôn, gia đình êm ấm”; người thì nói: “Tôi hạnh phúc vì tôi có được đầy đủ cả tiền bạc và danh vọng”; cũng có người nói: “Tôi hạnh phúc vì tôi chẳng vướng vòng danh lợi, chẳng lụy chuyện phu thê, ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch.” (“Ngày 3 bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no, Đêm 5 canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.” – Nguyễn Công Trứ), Có người thì cho rằng hạnh phúc là sống thụ hưởng, sống hôm nay không cần biết đến ngày mai (Jean Paul Sartre với phong trào hiện sinh “Existentialisme”), lại cũng có người cho hạnh phúc là sống thanh tịnh vô vi, không màng đến thế sự (Lão Tử với thuyết “Vô vi” 無 為 ). Quan niệm về hạnh phúc cũng đa dạng, phong phú lắm, không dễ gì tìm được một điểm chung. Đa số những quan niệm đó đều nhắm vào hiện thực cuộc sống trần thế, và chính những hiện thực cuộc sống ấy đem lại cho chủ thể “trạng thái sung sướng” trong lãnh vực tinh thần. Nói cách cụ thể hơn, cái hạnh phúc hệ tại cuộc sống trần thế có thế đụng chạm, cầm nắm được (vật chất), nhưng khi có được nó rồi thì cảm thấy mãn nguyện, sung sướng (tinh thần).
Vấn đề cần xét tới ở đây là những quy định, những điều kiện được đua ra trong những mối phúc đều là những điều kiện về tinh thần, về phương cách sống (tinh thần nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, khao khát nhân đức, thương người, trong sạch, bị bách hại), và nếu sống được như vậy thì chắc chắn sẽ được phần thưởng. Phần thưởng đó không là giấy khen, bằng khen, hay những món tiền, món quà…; mà là những phần thuởng về tinh thần, về cuộc sống mai hậu. Cho nên có thể nói rằng, để có được “trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện”, thì tiên vàn người môn đệ phải có niềm tin vào Người Thầy của mình chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu Độ trần gian. Nói cách khác, những mối phúc là những cách thế biểu lộ niềm tin, là những con đường sống đức tin, bởi chỉ có đức tin mới là cứu cánh tuyệt đối cho mọi phương cách chiếm hữu Nước Trời.
Sống đức tin ư? Đúng vậy! Chỉ có tin, mới thực hành được Lời Chúa dạy, nhất là những điều thiệt hại nặng nề đến bản thân (“bị sầu khổ, bị bách hại…”). Thánh Phao-lô Tông đồ đã từng nhấn mạnh: “Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật nào mà hãnh diện? Vào việc làm chăng? Không, nhưng dựa vào lòng tin. Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy.” (Rm 3, 27-28); ”Tuy nhiên, vì biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy.” (Gl 2, 16).
Một điều hiển nhiên đối với Thánh Phao-lô là khi ngài chưa tin vào Đức Ki-tô thì ngài là người rất năng nổ trong việc lùng bắt những người theo Ki-tô; nhưng sau biến cố Damas, được sáng mắt (nhờ được chính Đức Giê-su Ki-tô chữa lành bệnh mù nội tâm), ngài đã tin vào Đức Ki-tô như lời ngài khẳng định: “Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20). Tin và thể hiện bằng hành động, bằng chính cuộc sống, đến độ “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Thánh nhân đã rất nhiệt thành trong sứ vụ rao giảng Lời Chúa, làm nhân chứng sống cho Tin Mừng cứu độ, để trở nên một tông đồ kiệt xuất như một vì sao Bê-lem đem Ánh Sáng đến cho dân ngoại. Phải chăng chính Thánh Tông đồ dân ngoại đã là một mẫu gương sáng chói cho việc “sống đức tin”? Ấy cũng bởi vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 26).
Nói tóm lại, sống trên đời ai ai cũng mong muốn có hạnh phúc. Ai mà chẳng muốn luôn được sống trong “trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện”. Mà ý nguyện là gì, nếu không phải đó là những mong mỏi, những ao ước, những hy vọng đề ra trong cuộc sống, để con người nỗ lực vươn tới. Sẽ có một phản biện: “Thế những người chủ trương sống thanh tịnh vô vi (không làm, không hành động), hoặc chủ trương sống hôm nay không cần biết đến ngày mai (hiện sinh), họ có nỗ lực chăng?” Câu trả lời luôn luôn là có, bởi “có thực mới vực được Đạo” (có ăn thì mới làm được việc Đạo). Sống thanh tịnh vô vi, nhưng không thể vô thực vô ẩm (không ăn không uống) được, Mà muốn có đồ ăn thức uống, vẫn phải nỗ lực kiếm tìm, chớ không thể “há miệng chờ sung”. Còn những người theo thuyết hiện sinh, sống hôm nay không biết đến ngày mai, nhưng nếu giả thử không có một chút cơm áo gạo tiền, thì liệu có sống thụ hưởng được không? Vì thế, vẫn cần phải có một nỗ lực để sống và nhất là để bảo vệ chủ thuyết mình đã theo.
Người Ki-tô hữu với cuộc sống trần thế cũng không ngoại lệ, cũng phải lo cơm áo gạo tiền để mà sống trước đã, nhiên hậu mới nói đến những ý nguyện, những ước vọng tương lai được xây dựng, được hoài bão bằng một nỗ lực không ngừng. Có thể khẳng định: Sự nỗ lực ấy luôn được thúc đẩy bằng một niềm tin, bởi càng tin tưởng thì lại càng gắng sức, càng hy vọng vào hạnh phúc đích thực lại càng nỗ lực cầu nguyện và hành động, để đạt được ý nguyện. Vâng, muốn chiếm hữu được Nước Trời thì phải nỗ lực, phải không ngừng gắng sức kiến tạo cho mình một chứng minh thư “Hạnh Phúc Thật” – một THẺ CĂN CƯỚC KI-TÔ HỮU – phản ánh trung thực cuộc sống theo Hiến chương Nước Trời với một đức tin vững vàng và một nỗ lực kiên trì vươn tới. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, xin tuôn đổ hồng ân giúp chúng con ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN VI/TN).
JM. Lam Thy ĐVD.