Nhảy đến nội dung

Cẩn trọng với của cải - Đường đến sự sống đời đời

20.8 Thánh Bênađô, Gmtsht

Ed 28:1-10; Đnl 32:26-27,27-28,30,35-36; Mt 19:23-30

CẨN TRỌNG VỚI CỦA CẢI

Thánh Bernađô sinh năm 1090 tại lâu đài Fontaine-les-Dijon, nước Pháp. Nhờ sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu và gia giáo, Bernađô sau này đã trở thành người bặt thiệp biết xử sự khôn ngoan với mọi người. Trong số 7 anh em, Bernađô là người con thứ ba. Cậu được gia đình cưng chiều hơn cả vì có tư cách nết na và đạo hạnh hơn các anh em.

Tới tuổi khôn, Bernađô được cha mẹ cho theo học tại trường các thầy kinh sĩ ở Chatillon-sur-Seine. Nhờ sự rèn cặp của các thầy, Bernađô đã dần dần bỏ được tính rụt rè và câu nệ thái quá. Năm 16 tuổi giữa lúc cuộc đời đang lên với nhiều hứa hẹn thì bà thân mẫu của Bernađô từ trần khiến cậu phải trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần nặng nề khiến cậu trở nên trầm lặng và suy tư. Nhưng rồi bỗng người ta thấy cuộc đời của chàng thanh niên ấy xoay hẳn một góc 180o. Chàng đứng lên, cương quyết chống lại mọi thử thách và quyến rũ của gia đình và bạn bè để dâng mình phụng sự Chúa trong dòng Xi-tô. Không những thế Bernađô còn lần lượt lôi cuốn được các anh em và cả ông thân sinh cùng nhiều người khác theo gương mình vào dòng.

Năm 1115 thầy được cử làm tu viện trưởng Clairvaux một chi nhánh của dòng Xi-tô. Đây là một dịp để thầy hy sinh hãm mình nhiều hơn, dù yếu đuối và sức khỏe rất mỏng manh thầy cũng không chịu thua kém ai trong sự ăn uống kham khổ. Ngài còn mắc chứng đau bụng kinh niên. Tuy nhiên Ngài vẫn cố gắng tham dự các buổi phụng vụ như mọi người khác. Chỉ khi nào không chịu nổi cơn đau Ngài mới bỏ cộng đồng.

Nhận thấy tu viện trưởng Bernađô là người có đầy nhân đức và uy tín nên đức Giám mục Guillaume de Champeaux cho ngài được nhận chức linh mục và sai ngài đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Ngài đã vâng lời vui vẻ ra đi. Nhờ đức khiêm nhường sâu thẳm, Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ. Hết nhiệm vụ Ngài lại trở về nhà dòng phục vụ. Trong 38 năm làm bề trên, Ngài lập thêm được 68 tu viện chi nhánh của Clervaux. Ngài viết nhiều tác phẩm để bênh vực đức tin, truyền bá lòng yêu mến Chúa và đức bác ái.

Sau khi tận tụy và nỗ lực làm việc cho sáng danh Chúa, thánh nhân đã qua đời tại Clairvaux ngày 20 tháng 8 năm 1153 lúc ba giờ chiều ngày thứ năm, thọ 63 tuổi.

Mười năm sau, các tu viện trưởng họp lại lập án xin phong thánh cho cha Bernađô. Ngày 18 tháng 1 năm 1174, án được đức Alexandro III châu phê. Và năm 1830 Đức Piô VIII tôn phong Ngài lên hàng tiến sĩ Giáo hội.

Thánh Bênađô nhắc nhở chúng ta rằng mỗi chúng ta là một sự khác biệt. Mỗi người chúng ta có thể cống hiến tài năng của mình để làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Nếu bạn phân vân không biết mình phải đóng góp điều gì, bạn hãy tha thiết cầu nguyện xin thánh Bênađô trợ giúp.

Của cải có sức thu hút và mê hoặc lòng người, bởi vì dường như nó có thể đáp ứng mọi nhu cầu và đời sống hưởng thụ của con người. Chẳng vậy mà người đời có câu: “có tiền mua tiên cũng được”, hay “tiền là tiên là phật…” Người có nhiều tiền của được gọi là người giàu. Theo quan niệm của người Do-thái cũng như quan niệm của nhiều người thì đó là những người được phúc. Thế nhưng, lời của Đức Giê-su trong Tin mừng hôm nay gây sốc không những cho người nghe lúc bấy giờ (các môn đệ vô cùng sửng sốt) mà gây sốc cho rất nhiều người trong mọi thời đại: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa” (c. 24). Đồng thời ngược lại, Chúa lại hứa ban thưởng gấp trăm cả đời này lẫn đời sau cho những ai từ bỏ mọi sự mà theo Người.               

Có mâu thuẫn không giữa những điều Chúa nói? Chẳng phải nếu Chúa ban cho họ gấp bội ở đời này thì họ lại trở thành người giàu hay sao, và khi ấy phải chăng họ lại trở thành những kẻ khó vào nước trời? Thực ra, mấu chốt của vấn đề là tinh thần từ bỏ; người có tinh thần từ bỏ không bị ràng buộc bởi của cải, hay nói khác đi, họ không bị của cải vật chất cản trở bước đường làm người môn đệ, nhưng biết dùng nó như phương tiện Chúa ban để sống theo ý Chúa. Vì thế, họ có thể là người rất giàu có về của cải nhưng luôn coi nó là hồng ân, là quà tặng của Thiên Chúa ban mà sống trong tinh thần tri ân, cảm tạ và luôn sẵn sàng chia sẻ, cho đi không tính toán.

Đã hẳn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải sống nghèo nàn mạt rệp. Vì cái nghèo cho thấy sự tồn tại của điều ác. Nó chỉ cho chúng ta biết xã hội, môi trường chúng ta sống vẫn còn đó sự bành chướng của ích kỷ; vẫn còn đó những con người không biết chia sẻ, chỉ biết vun đắp cho chính mình, thiếu vắng tinh thần quảng đại sẵn sàng cho đi của một tình yêu vị tha. Hơn nữa, sự nghèo túng, bần hàn, khốn cùng như ‘sự dữ hiện hình’ làm cho con người không còn nhân phẩm, sống không ra người và đó không phải là điều Thiên Chúa muốn; vì khi tạo dựng vũ trụ, con người, chẳng phải Thiên Chúa đã chúc phúc và ra lệnh cho nó sinh sôi và phát triển phong phú hay sao? Và Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô khi đến cứu độ trần gian Ngài đã đến với thân phận nghèo hèn khốn cùng của con người là để cứu vớt, nâng họ lên khỏi vực sâu của bần cùng tội lỗi cho họ trở nên ‘giàu có’ vì được làm con Thiên Chúa.

Tuy nhiên, sự giàu có lại khiến con người dễ xa rời Thiên Chúa bởi mê lầm, tự mãn. Mê lầm vì nghĩ rằng của cải là cứu cánh có thể thỏa mãn tất cả, đem lại sung sướng và hạnh phúc - tiền có thể làm cho họ đạt được danh vọng, vinh quang và mọi thú vui ở đời – bởi thế mà ‘có tiền mua tiên cũng được’; và cũng từ đó dẫn đến tự mãn không cần Thiên Chúa, và tồi tệ hơn nữa là họ có thể quay lưng lại với Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa, bất chấp mọi thủ đoạn để có thể đạt được những ước muốn bất chính của mình. Vì vậy mà Đức Giê-su nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ… các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của được” (Lc 16,13). Vì tiền của có thể là một tên đầy tớ tốt, hữu dụng, nhưng ngược lại nó sẽ là ông chủ xấu xa, độc ác.

Cuối bài Tin mừng, chúng ta thấy một câu có vẻ không ăn nhập gì lắm, nhưng thực ra là một ý hướng chủ đạo dẫn dắt bản văn: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu." (c. 30) Những kẻ ‘đứng chót’ ở đây – Đức Giê-su muốn nói đến những con người ‘nghèo’ của Tin mừng – những người sống khiêm tốn, chỉ biết cậy dựa vào Thiên Chúa chứ không cậy dựa vào thế lực của giàu sang vinh hoa phú quí; họ là những kẻ được Thiên Chúa yêu thương, bênh vực và là những ‘người lớn’ trong nước trời (Lời kinh Magnificat). Bởi vì họ lấy Chúa là sức mạnh, là gia nghiệp của đời mình. Họ là những người khôn ngoan biết tích lũy kho tàng trên trời nơi mối mọt không thể đục khoét hơn là tìm kiếm của cải phù vân (x. Lc 12,33); họ hiểu ý nghĩa và vị trí của tiền của, biến nó thành phương tiện để thi hành ý Chúa chứ không coi nó là mục đích của cuộc đời. Vì thế, họ là những người được Thiên Chúa chúc phúc và nước trời sẽ là phần thưởng của họ. (c. 28. 29)

Như đã nói: Tiền của có sức hút và mê hoặc con người  - ‘Đồng tiền đi liền khúc ruột’ – do đó, để có thể làm chủ được nó, con người không được khinh suất, nhưng rất cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Bởi thế mà Đức Giê-su đã nói: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được." (c. 26) Với sự hướng dẫn và ơn Chúa ban, con người sẽ biết cách sử dụng tiền của để mưu cầu lợi ích cho mình và cho tha nhân, giúp phát triển xã hội ngày càng tươi đẹp, lành mạnh và phong phú.

**************

19.8 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi Mùa Quanh Năm

Ed 24:15-24; Đnl 32:18-19,20,21; Mt 19:16-22

Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời

Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên đến gặp và xin Chúa Giêsu chỉ con đường dẫn đến sự sống đời đời, đó là một ý nghĩ khôn ngoan. Tuy nhiên, thái độ của anh đáp ứng Lời Chúa Giêsu chứng tỏ anh mới chỉ có ý nghĩ một chút về sự khôn ngoan. Anh thoáng thấy của cải không phải là hạnh phúc đích thực, vì thế, anh đến với Chúa để tìm sự khôn ngoan. Khốn nỗi, con đường khôn ngoan mới vạch ra đã bị của cải cản lối khiến anh không nhận ra được rằng sự sống đời đời mới là của cải quí giá nhất mà anh phải tìm kiếm.

Người thanh niên tìm đến với Chúa Giêsu, vì nhận thấy Ngài là một tôn sư có gì khôn ngoan hơn những bậc thầy trong dân Israel mà anh thường gặp. Anh chưa nhận ra Chúa Giêsu chẳng những là tôn sư dạy sự khôn ngoan, mà còn là chính sự khôn ngoan; Ngài không chỉ đưa ra một lời dạy khôn, mà còn là lời ban sự sống đời đời; ai đón nhận và thực hiện lời Ngài sẽ được sống đời đời.

Chính vì thế, anh đã sầm nét mặt, buồn sầu bỏ đi khi Chúa Giêsu bảo anh: Hãy về bán hết của cải, rồi đến theo Ngài. Anh yêu của cải hơn sự sống và hạnh phúc đời đời. Anh tưởng Lời Chúa chỉ là một trong những lời chỉ giáo muôn mặt của các bậc thầy trong Israel, có theo hay không cũng chẳng sao, cứ nắm giữ lề luật cha ông truyền lại đã đủ chiếm được Nước Trời. Do đó, anh làm sao hiểu được lời này: "Anh chỉ còn thiếu một điều".

Anh đã thực hiện những gì ghi trong lề luật, nhưng anh còn thiếu một điều, mà thiếu điều đó, những gì anh đã nắm giữ mới chỉ là thứ công chính của Biệt phái không thể vào Nước Trời được. Ðiều anh còn thiếu chính là tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là liên kết với Ngài và thực hiện Lời Ngài. Vì Lời Ngài là lời thần linh làm cho việc tuân giữ giới răn trở thành sức sống trong tâm hồn con người.

Thật ra, tự nó, của cải không cản trở người ta vào Nước Trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô. Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của họ, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời.

Chọn Chúa chứ không phải chọn việc của Chúa. Đó là châm ngôn sống của đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Sinh thời, trong những tháng ngày sống trong lao tù, giữa những làn ranh của sự sống và cái chết, giữa những cám dỗ muốn tự do hay buông xuôi cho số phận. Ngài luôn luôn kiên định và ý thức rằng chọn Chúa, sống theo thánh ý Chúa, để Chúa hướng dẫn cuộc đời, ơn gọi và sứ mạng. Chính việc phó thác, cậy trông vào sự quan phòng và lòng xót thương của Chúa đã giúp ngài vượt qua muôn vàn những thử thách để sống niềm tin đã chọn và làm chứng cho Chúa trong hoàn cảnh không mong muốn.

Những mẫu người được Chúa yêu, chọn, chúc phúc và dẫn dắt theo đường lối quan phòng của Ngài đã từng được Kinh thánh nhiều lần nhắc tới. Tiên vàn họ là Abraham, ông tuyệt đối tin tưởng vào đường lối Thiên chúa, dám từ bỏ tất cả, lên đường đến vùng đất hứa. Ông để đời mình cho Chúa dẫn dắt và lèo lái. Ông được gọi là người cha của đức tin và của nhân loại.

Kế đến, họ là Môsê, bỏ qua những thương lượng, trả giá nơi bản tính nhân loại, Môsê đi theo tiếng gọi của Chúa dẫn đưa dân Người về tới bến bình an. Và còn rất nhiều những mẫu gương, những chứng nhân trong thời đại này khi mà họ đặt cả cuộc sống và ơn gọi của mình vào sự quan phòng và hướng dẫn của Thiên Chúa. Họ là Phanxicô khó nghèo. Họ là Inhaxiô đầy quyền lực. Họ là Gioan Phaolô II nhiều danh tiếng…Tất cả họ đã chọn Chúa là gia nghiệp đời mình lên trên hết mọi sự, họ đã tự nguyện phó thác ơn gọi và sứ  mạng cho Chúa sinh hạt, nảy mầm.

Câu chuyện trong bài Tin mừng ngày hôm nay, thánh Mátthêu lại trình bày cho chúng ta về một chàng thanh niên dường như lại đi ngược với những giá trị mà các thánh nhân đã sống. Anh đã chọn công việc của Chúa hơn là sống ơn gọi mà Ngài đã trao phó. Khi nghe danh tiếng của Chúa Giêsu, anh muốn đi theo và trở thành môn đệ của Ngài. Thật vậy, tất cả những đòi hỏi nơi Chúa Giêsu đã được anh giữ trọn và sống một cách triệt để. Những yêu cầu nơi Chúa Giêsu xem ra như một tấm vé hạng sang để anh trở thành đệ tử ruột và xứng đáng đạt phần thưởng sự sống đời đời.

Tuy vậy, Chúa Giêsu còn muốn người môn đệ của mình đi xa hơn nữa, xả thân và hy sinh hơn nữa nếu muốn ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Đó là Người yêu cầu anh bán hết những tài sản mình có để cho người nghèo. Nghe đến đây, anh buồn rầu bỏ đi. Anh không dám bỏ của cải, vật chất, mồ hôi nước mắt của anh. Anh đã đặt để công việc của anh và của Chúa trên giá trị của Tin mừng. Anh đã để cho sự ràng buộc của thế gian trên những yêu cầu của Nước Trời.

Câu chuyện của anh nhà giàu trên đây cũng là bài học cho nhiều người Ki-tô hữu chúng ta. Có thể chúng ta đang sống rất tốt lành và đúng bổn phận của một tín hữu ngoan đạo. Chúng ta đang thực thi những công việc của Chúa và Hội thánh dạy một cách rất tường tận và chu đáo. Thường xuyên tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật, chịu khó đọc kinh sáng tối, năng học hỏi Giáo lý và các giáo huấn của Giáo hội. Tuy vậy khi phải đối diện với những nghịch cảnh của đời mình như ốm đau, bệnh tật, thiên tai và những trái nghịch xảy ra cho bản thân và gia đình, chúng ta lại kêu than và ca cẩm Chúa. Đứng trước những thử thách này dường như chúng ta đang lấy những công phúc và khó nhọc của mình để ra giá và ăn vạ Chúa. Con người hữu hạn nơi chúng ta là như vậy.

Xin cho mỗi người chúng ta biết nhìn vào gương của các thánh nhân, lấy cuộc đời và ơn gọi của các ngài làm gương soi và đặt để đời mình vào đời Chúa. Nhất là xin cho mỗi người chúng ta có trái tim của Chúa để ôm ấp tất cả những nghịch cảnh ở đời này, có đôi tay của Chúa để đón chào tất cả những khó khăn và đặc biệt có khối óc của Chúa để biết phân biệt và chọn lựa công việc trong đời sống hàng ngày. Có Chúa, ở với Chúa, chúng ta sẽ có tất cả như lời thánh vịnh 126 đã nói: Kẻ được Chúa thương, dầu có ngủ, Ngài vẫn ban cho đủ tiêu dùng.

Nguyện xin Chúa kiện toàn nơi chúng ta những gì Ngài đã khởi sự, và cho chúng ta đạt tới lý tưởng là sống theo Chúa, Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống đời đời.

Tác giả: