Cao lương mỹ vị đời tôi - Những lời nói yêu thương sau cùng - Đêm hoài mong - đêm khải hoàn
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Lm Xuân Hy Vọng
CAO LƯƠNG MỸ VỊ ĐỜI TÔI
Chắc hẳn trong chúng ta, ít nhất một lần trong đời mơ ước được thưởng thức một mâm cỗ đầy cao lương mỹ vị, hoặc đã từng tận hưởng thức ăn đồ uống nơi những nhà hàng sang trọng, mà ai nhìn cũng có vẻ trầm trồ khen ngon và có chút gì đó ghen tị!
Ngoài xã hội là thế! Ai trong chúng ta không mong có địa vị giàu sang, muốn mọi người xung quanh đều phải ngước nhìn hay khen tặng mỗi lúc đi tham các sự kiện lớn nhỏ danh giá, được mời đặt chân đến những nơi chỉ dành cho giới thượng lưu, danh nhân…! Thế nhưng, chúng ta đã bao lần tự hỏi chính mình: mâm cỗ cao lương mỹ vị của một người Công Giáo đích thật là gì chưa? Hay vì tham dự nhiều bữa tiệc hoành tráng, đèn chiếu lung linh, nhạc sống dập dìu đung đưa đã quen rồi, nên bữa tiệc cao quý nhất trong đời tôi lại trở nên quá tầm thường?
Nhìn lại ba năm về trước, nguy cơ lây lan càng ngày càng chóng mặt của cơn đại dịch cô-vi, hầu hết các Thánh lễ khắp nơi đều bị đình chỉ; nhưng dẫu rằng vậy, Thánh lễ vẫn tiếp diễn dưới hình thức trực tuyến, và mọi người Công Giáo khắp nơi cũng tham dự Thánh lễ online với tâm tình chờ mong được lãnh nhận cao lương mỹ vị mà không một nhà hàng nào, dù bậc nhất thế giới đến đâu cũng không thể có, đó chính là Mình và Máu Chúa Ki-tô.
Phụng Vụ Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh nhắc nhở chúng ta đến bữa tiệc Vượt Qua của dân Do Thái thời Cựu Ước, và tiệc Vượt Qua này được trở nên trọn vẹn qua việc Chúa Giê-su hoá bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Ngài, hầu đơn sơ ở lại với chúng ta mãi mãi nơi bàn tiệc Thánh lễ, trong Bí tích Thánh Thể. Đối với người Do Thái, khi nhắc đến lễ Vượt Qua, không ai trong con cái họ lại quên bẵng biến cố vô cùng trọng đại này. Vì nhờ bàn tay oai hùng của Thiên Chúa, dân Do Thái đã được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua biển Đỏ ráo chân, và tiến vào đất hứa. Còn đối với chúng ta, khi được tham dự vào Bàn tiệc Thánh, chúng ta được tháp nhập vào lễ Vượt Qua của Chúa Giê-su Ki-tô, vượt qua sự chết và tiến vào vinh quang Phục Sinh. Chúng ta phải chết với tội lỗi mà sống cuộc sống mới cho Chúa, “…các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (x. Lc 22, 19 - 20). Chúng ta được mời thưởng thức cao lương mỹ vị không gì khác hơn chính Mình và Máu, chính sự sống của Chúa Ki-tô, thì chúng ta cũng được mời gọi trở nên giống Chúa Ki-tô trong mọi sự. Chúng ta không thể nào dùng cái miệng này vừa rước Mình Máu Thánh mà lại chửi rủa, thoá mạ, lên án, kết tội anh chị em? Chúng ta không thể nào dùng bàn tay này vừa lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, mà lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh đập, bạo hành, làm tổn thương anh chị em? Chúng ta không thể vừa rước Chúa vào lòng, cũng vừa làm cho tâm hồn, tư tưởng bản thân nên hoen úa với biết bao tội lỗi?
Hơn nữa, mâm cỗ cao lương mỹ vị Mình và Máu Thánh Chúa được diễn tả một cách cụ thể và sống động qua việc Chúa Giê-su chịu khổ nạn và chịu chết trên Thập Giá. Chúa Giê-su không nói suông bằng môi miệng hay ngôn từ; nhưng Ngài dọn tiệc mừng với chính sự sống vô giá của mình cho chúng ta bằng hành động phục vụ tận tâm (x. Ga 13, 1-15) và hy sinh mạng sống quý giá cho người bạn hữu (x. Ga 15, 13). Thiết nghĩ, Chúa không bắt chúng ta phải chết cho người khác đâu, nhưng Ngài hằng mời gọi chúng ta mỗi ngày chết cho những gì ‘phản Ki-tô’, chết cho những thói hư, tật xấu, những thói quen không giúp chúng ta gần Chúa và gần anh chị em. Ngoài ra, Chúa cũng chẳng bắt chúng ta phải bỏ mạng sống bản thân để phục vụ đâu, nhưng có chăng Ngài gọi mời, thúc giục chúng ta nên bước ra khỏi ‘chăn ấm nệm êm của cái tôi’, cúi xuống (hạ mình) hầu đến với anh chị em, nhất là những ai nghèo khó, cơ cực, cô đơn, cô độc, những người có một vị trí đặc biệt trong con tim hằng yêu thương của Chúa.
Cao lương mỹ vị của đời sống người Công Giáo không chỉ kết thúc vỏn vẹn trong Thánh Lễ, nhưng được tiếp nối mãi trong đời sống thường nhật. Mỗi lần chúng ta thực thi bác ái, bỏ mình, khiêm hạ, gặp gỡ Chúa trong anh chị em, thậm chí những người mình không ưa, không thích, không muốn giao thiệp; mỗi khi chúng ta tha thứ, khuyến khích, động viên anh chị em trong đời sống đạo, là lúc mùi vị của mâm cỗ tiệc Thánh được toả hương thơm ngát. Chẳng phải hương thơm của gia vị hoà trộn mặn mà để ướp thức ăn, mà là hương thơm của tình yêu, hương thơm sự sống của chính Con Một Thiên Chúa đang ôm trọn tâm hồn chúng ta!
Ước gì, mùi hương của mâm cỗ tiệc Thánh luôn toả ngát trong đời sống chúng ta, trong môi trường chúng ta đang sống, trong mọi hoàn cảnh, trạng huống, trong mọi thời điểm buồn vui của cuộc đời chúng ta.
Ôi Mình Máu Thánh châu báu
Mâm cỗ tuyệt hảo thẩm thấu hồn con
Cao lương mỹ vị vẹn tròn
Được cùng tận hưởng, đời con thông phần.
Đơn sơ Chúa đến ân cần
Chan hoà ở lại, kết thân muôn đời. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
NHỮNG LỜI NÓI YÊU THƯƠNG SAU CÙNG
Ngay sau được chọn làm Giáo Hoàng, kế nhiệm Thánh Phê-rô, trong bài huấn từ khởi sự của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, ngài nói: “Mỗi khi chúng ta tuyên xưng Đức Ki-tô mà không có Thánh giá, thì chúng ta chưa phải là môn đệ của Chúa. Chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là linh mục, giám mục, hồng y, giáo hoàng, nhưng chẳng phải là môn đệ của Chúa! Tôi ao ước rằng tất cả chúng ta, sau bao ngày ân sủng này, sẽ trở nên can đảm, can đảm tiến bước trong sự hiện diện của Chúa, với Thánh Giá của Chúa, để xây dựng Giáo Hội nhờ bửu huyết của Chúa đã đổ ra trên Thánh Giá và để tuyên xưng một vinh quang duy nhất, đó là vinh quang của Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Bằng cách này, Giáo Hội sẽ thăng tiến. Tôi ước mong cho tất cả chúng ta rằng nhờ lời cầu bầu của Mẹ Ma-ri-a, Mẹ chúng ta, Chúa Thánh Thần tuôn đổ dồi dào hồng ân trên mỗi người, hầu chúng ta ra đi, kiến tạo và tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh. Chỉ vậy thôi”.
Lời huấn đức của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô quả thật là tâm điểm của đời sống đức tin Ki-tô hữu chúng ta. Và Phụng Vụ hôm nay hướng chúng ta đến thời khắc ‘Chúa Giê-su hiến tế thân mình, yêu thương và tha thứ đến tận cùng, vâng phục Chúa Cha cách trọn hảo, hy sinh chịu tử nạn trên Thánh Giá’ vì chúng ta. Người ta kể lại rằng: tại thị trấn Nash-vin (Nashville), một khách du lịch lần nọ bước vào nghĩa trang quân đội, lấy làm lạ khi thấy người đàn ông đặt hoa trên một nấm mộ bé nhỏ xinh xắn. Người du lịch ấy bèn hỏi: ‘Xin lỗi! Phải chăng đây là mộ phần của con ông?’ Ông đáp: ‘Thưa ngài, không ạ!’
- Thế của bà con thân thuộc?
- Cũng chẳng phải vậy, thưa ngài!.
- Thế sao ông đặt hoa lên mộ cách kính cẩn như vậy ạ?
Người kia đặt hoa xuống, sụt sùi cảm động liền kể cho ông khách du lịch nghe. Đó là khi chiến tranh diễn ra, chính phủ bắt tôi phải đi động viên. Khổ nỗi nhà tôi vừa nghèo vừa không thể thuê người khác đi hộ được; nên tôi đành tuân lệnh lên đường nhập ngũ. Đang khi tôi thu dọn đồ đạc và từ giã vợ con, thì bỗng dưng một người bạn tri kỷ tình cờ ghé thăm, biết chuyện bèn đề nghị với tôi: “Anh còn vợ con, nếu anh đi sẽ không có ai làm ăn, nuôi nấng chúng, thôi anh hãy ở lại, để tôi đi thay cho!” Vừa nghe lời ấy, trong bụng tôi vô cùng vui sướng, nhưng chẳng nỡ để anh bạn đi thế. Từ chối hồi lâu, tôi bị thuyết phục, chấp thuận để người bạn ấy nhập ngũ thay tôi. Sau ít lâu, tôi nghe tin bạn tôi bị thương nặng, rồi thiệt mạng ngoài chiến trường, và cũng được biết người ta mai táng anh ấy tại nghĩa trang này. Dò hỏi thông tin, cuối cùng tôi cũng đặt chân tới đây tìm thấy ngôi mộ của anh ấy. Sau đó, tôi khắc lên bia mộ bạn tôi: ‘Người đã chết vì tôi’.
Anh bạn tri kỷ đã hy sinh mạng sống cho bằng hữu với tình bạn thanh khiết. Còn hơn thế, Chúa Giê-su đã chịu khổ nạn, chịu chết vì nhân loại tội lỗi, trong đó có bạn và tôi, có anh chị em và tôi. Đã là con người, chẳng có ai muốn chết cho người bất hảo, bất lương…, có chăng chết cho người tử tế tốt lành thánh thiện thôi! Tuy nhiên, trước khi bị xử tử, tâm lý con người thường rối loạn, khiến họ chửi rủa. Triết gia Sê-nê-cơ (Sénèque) bộc bạch về tâm lý này như sau: đương sự thường chửi mắng, đay nghiến những kẻ muốn giết họ, chửi lây đến ai đang nhìn ngó; có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình được sinh ra, nguyền rủa chính đấng sinh thành dưỡng dục. Bởi thế, văn hào Si-sê-ron (Cicéron) cho biết thêm, rằng: trong các cuộc xử tử thời đế quốc La-Mã, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta sẽ cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe tiếng chửi rủa, chì chiết cay nghiệt. Như vậy, trong cuộc xử tử chiều thứ Sáu Tuần Thánh ấy, chúng ta cũng đã nghe một tên trộm bị đóng đinh chung với Đức Giê-su chửi mắng lung tung, chửi cả Đức Giê-su, người chẳng có thù oán với hắn. Tuy nhiên, đáp lại những lời thoá mạ, nguyền rủa ấy, chẳng phải là lời chửi rủa vô hạn, mà lại là những câu nói nhẹ nhàng, dịu dàng, thắm thiết, chứa chan tình yêu thương vị tha, mặc dù Ngài đang chịu đau thương tan nát. Lời thứ nhất, Đức Giê-su nói với những kẻ thù căm ghét, giết hại Ngài: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (x. Lc 23, 34). Lời thứ hai, Ngài nói với người tội lỗi, tên trộm ‘lành’ đang bị treo bên cạnh: “Quả thật, Ta bảo với anh: Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43). Lời thứ ba, Đức Giê-su trao phó Gio-an (tượng trưng Giáo Hội) cho Đức Mẹ, và nhắn nhủ Gio-an đón nhận Mẹ Ma-ri-a. Đây là lời Ngài nói với Mẹ - một người thánh thiện, cùng với ‘môn đệ yêu dấu’, môn đệ trung thành: “Thưa Bà, đó là con Bà - Đó là Mẹ của con” (Ga 19, 26-27). Qua đây, chúng ta càng thấm thiết hơn lời Chúa dạy “yêu thương tha nhân như chính mình, yêu thương kẻ thù, cầu nguyện cho những kẻ bách hại…” (x. Mt 5). Vì chưng, cho đến giờ phút lâm chung, tình thương của Thầy Chí Thánh Giê-su vẫn luôn bao la vô bờ, và còn bao la hơn bao giờ hết. Tình yêu vị tha, tình yêu hiến tế tận cùng ấy Ngài dành cho ai? Trước hết cho kẻ thù, những ai giết hại Ngài; kế đến cho người tội lỗi, và tiếp theo cho những ai thiện lành, thánh đức.
Dẫu là “Thiên Chúa thật, nhưng Đức Ki-tô đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, đã biến mình ra không, trở nên xác phàm yếu đuối, nhưng sống trọn hảo, vâng phục đến tận cùng” (x. Pl 2, 6-11); và căn cứ vào những lời nói sau cùng của Ngài trước lúc tử nạn, chúng ta càng thấu tỏ Con Người Đức Giê-su thế nào!
Lạy Chúa, xin cho chúng con trung thành theo chân Chúa đến cùng. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
ĐÊM HOÀI MONG - ĐÊM KHẢI HOÀN
Hẳn ai trong chúng ta đều rõ: cao điểm của năm Phụng vụ chính là Tuần Thánh, đặc biệt Tam Nhật Thánh (Thứ Năm Tuần Thánh, Thứ Sáu Tuần Thánh và Thứ Bảy Tuần Thánh hoặc Lễ Vọng Phục Sinh). Có rất nhiều lễ nghi cũng như nghi thức trong Tam Nhật Thánh, nhưng chúng ta cùng nhau chiêm ngắm gần hơn ngọn nến cao cháy sáng Phục Sinh.
Khởi đầu nghi lễ, mọi đèn nến trong sân nhà thờ đều tắt, bóng tối như bao trùm tất cả. Thế rồi vị Chủ tế châm lửa từ bếp than hồng, mồi vào ngọn nến Phục Sinh. Một tia sáng nhỏ loé lên trong đêm tối. Đêm canh thức, đêm hoài mong dường như nhường lối cho đêm hồng ân và đêm khải hoàn! Sau đó, những ngón nến nhỏ trên tay các tín hữu được thắp sáng bừng lên từ ngọn nến cao Phục Sinh. Ánh sáng tỏa lan, và cuối cùng mọi đèn nến trong nguyện đường đều rực chiếu. Bóng tối hoàn toàn bị đẩy lùi. Chúa Giê-su Ki-tô đã chiến thắng sự chết, đã khải hoàn phục sinh từ cõi chết; Ngài là nguồn mạch ánh sáng, chiếu soi toàn thể nhân loại đang lần mò trong tối tăm.
Quả thật, bóng tối chẳng thể nào che lấp ánh sáng; ma quỷ-thần chết chẳng thể nào chiến thắng Thiên Chúa; sự ác chẳng thể nào áp đảo thiện lành được! Qua các nghi lễ Tuần Thánh, một chân lý sáng tỏ và tường tận. Khi Đức Giê-su chịu khổ nạn, chịu chết nhục nhã trên thập giá, dường như bóng tối, quyền lực ma quỷ, thần chết và sự ác đã hoàn toàn chiến thắng. Thế nhưng, Chúa Giê-su Ki-tô đã sống lại vinh quang; Ngài là ánh sáng Phục Sinh soi chiếu và đẩy lùi bóng đêm tăm tối; Thiên Chúa không dừng bước trước ma quỷ và sự thiện lành đã toàn thắng trước sự ác!
Vào dịp Lễ Vọng Phục Sinh tại Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô năm 2014, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô kết thúc bài giảng của ngài như sau: "Tin Mừng Phục Sinh rất ư rõ ràng: chúng ta cần trở về Ga-li-lê-a để gặp Chúa Giê-su Phục Sinh, và trở thành những chứng nhân phục sinh của Ngài. Điều này không phải đi ngược thời gian, cũng không phải niềm thương luyến tiếc quá khứ, mà là chúng ta quay trở về với tình yêu ban đầu, hầu nhận ngọn lửa mà Đức Giê-su đã thắp lên trong thế gian và mang ánh lửa ấy đến cho tất cả mọi người, đến tận cùng trái đất”. Thật vậy, trong đêm lễ Vọng Phục Sinh, tại các nhà thờ đây đó trên khắp thế giới, chúng ta chứng kiến những anh chị em dự tòng trưởng thành được lãnh nhận Bí tích Khai Tâm (Rửa Tội, Thêm Sức, Rước Lễ lần đầu), được trở nên con cái của Chúa, được gia nhập Giáo Hội, trở thành người đồng hành đức tin với chúng ta. Thiết nghĩ, trong số ấy, có nhiều người vì hoàn cảnh này hoàn cảnh khác chưa dám bỏ mình theo đạo; nhưng nhờ gương sáng chứng nhân nơi anh chị em Ki-tô hữu, cuộc gặp gỡ đổi đời, họ cảm nhận dãi ánh sáng trong tâm trí, dần dần tìm hiểu học đạo, và tự quyết bước theo chân Chúa. Cũng trong đêm Vọng Phục Sinh này, họ được bước vào cung lòng ánh sáng chan hòa của Chúa; họ vui mừng kín múc hồng ân trở nên thụ tạo mới; họ được lãnh nhận đức tin và can đảm sống chứng tá suốt quảng đời còn lại. Vì vậy, bóng tối vô thần nhường bước cho ánh sáng Phục Sinh; bóng đêm vô tri ngã gục trước ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa!
Bên cạnh đó, đã là con người, chúng ta không thể tránh khỏi những giây phút yếu đuối, tội lỗi; những ‘đêm tối, u mê’ giữa dòng đời. Lắm lúc, chúng ta ngã lòng, ‘nhắm mắt đưa chân’ hoặc muốn buông trôi; nhiều khi chán chường vì biết bao kẻ lòng dạ ác tâm nhận chìm chơi vơi giữa biển đời tăm tối chông chênh, v.v… Những khoảnh khắc này, chúng ta không khỏi chán nản, nhục chí, bỏ cuộc! Tuy nhiên, Mầu Nhiệm Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh vực chúng ta trỗi dậy, đưa chúng ta ra khỏi đại dương tăm tối, cứu chúng ta đang hì hục ngụp lặn giữa dòng chảy siết trần ai, nâng đỡ chúng ta kiên vững, giúp chúng ta vượt qua tình trạng ngã lòng; vì chưng sau cùng, ánh sáng Phục Sinh sẽ đẩy lùi bóng đêm sự chết, và Chúa Ki-tô khải hoàn vinh quang là nguồn cứu độ cho chúng ta. Bởi vậy, từ đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta cùng với Mẹ Giáo Hội hân hoan cất lên bài ca Hal-lê-lui-a (Tạ ơn Thiên Chúa!). Ước gì bài ca Hal-lê-lui-a vang mãi trong đời sống đức tin của mỗi chúng ta, như Thánh Phao-lô Tông Đồ từng mời gọi giáo đoàn Phi-líp-phê đang khi ngài bị giam giữ: “Anh (chị) em hãy vui lên. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng anh (chị) em hãy vui mừng luôn trong Chúa” (Pl 3, 1).
Ôi đêm hoài mong trở thành đêm hồng ân; đêm chờ trông trở nên đêm khải hoàn! Lời tiên báo từ xa xưa của ngôn sứ I-sai-ah đã thành sự nơi Con Thiên Chúa Phục Sinh ‘ngay hôm nay và bây giờ’ (hic et nunc; here and now): “Mặt trời của ngươi sẽ không lặn và mặt trăng sẽ không còn khuyết, vì Thiên Chúa là ánh sáng vĩnh tồn của ngươi và sẽ chấm dứt những ngày tang tóc của ngươi” (Is 60, 20).
Ánh sáng Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa!
Ánh sáng Chúa Phục Sinh, chúc tụng Chúa!
Lm. Xuân Hy Vọng