Nhảy đến nội dung

Chầu Thánh Thể

  • CN, 30/03/2025 - 08:45
  • admin1

Thứ năm 17/04/2025

18  21  Đ  THỨ SÁU TUẦN THÁNH.

KÍNH NHỚ CHÚA GIÊ-SU CHỊU CHẾT CHUỘC TỘI NHÂN LOẠI.

Is 52,13–53,12; Hr 4,14-16;5,7-9; Ga 18,1–19,42.

CUỘC KHỔ NẠN

1. MỞ ĐẦU

Hát Dẫn Nhập:

Chọn bài hát phù hợp để khai mạc buổi chầu, như: "Con Thờ Lạy Chúa"

Lời Dẫn Nhập:

Lạy Chúa,

Trong giờ phút thiêng liêng này, con cúi đầu trước Chúa với lòng thành kính, mở rộng tâm hồn để đón nhận lời mời gọi của Chúa từ Tin Mừng Ga 18,1-19,42. Con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con phép dâng hiến thân thể và linh hồn mình trong bữa Thánh Thể, để qua đó chúng con được hòa nhập vào nỗi đau và vinh quang của Đấng Cứu Rỗi.

Lạy Chúa, như trong lời Chúa Giêsu đã chịu đựng những phút giây đắng cay dưới sự trói buộc của tội lỗi và định mệnh, con xin cùng dâng lên trước mặt Chúa tất cả những nỗi đau, những lo âu và tội lỗi của con. Xin cho con được thấy rõ hình ảnh của Người – Người đã chịu đựng cơn thương khó vì tình yêu thiêng liêng dành cho nhân loại, để con học cách yêu thương và tha thứ, sống đúng theo ý Chúa.

Trong giờ chầu Thánh Thể này, con cầu xin Chúa làm mới tâm hồn con, ban cho con sức mạnh và niềm tin vững chắc, để con luôn nhớ rằng, dù trong những lúc tăm tối nhất của đời sống, tình yêu của Chúa vẫn luôn hiện hữu, soi sáng cho con từng bước đi. Con nguyện được trở nên giống như Đấng Cứu Rỗi, biết sống qua mỗi khoảnh khắc với đức tin, hy vọng và lòng nhân từ, để mỗi hành động của con trở thành lời ca ngợi Chúa.

Lạy Chúa, trong bữa Tiệc Thánh này, con xin dâng trọn con – thân, trí, và tâm – để con được giao hòa với Đấng đã chịu đựng sự đau đớn và chết trên thập giá vì tội lỗi của chúng con. Xin ban cho con khả năng hiểu được sâu sắc ý nghĩa của sự hy sinh ấy, để qua đó, con có thể sống đúng với lời mời gọi của Ngài: “Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta thì được sống đời đời.”

Chúa ơi, xin hãy đến hiện hữu trong từng lát bánh và từng giọt rượu, để con nhận được nguồn sống mới, cho con biết rằng qua mỗi bữa Thánh Thể, con được tái sinh và trở nên một phần của Thân Thể Chúa. Xin Chúa nâng niu con, dẫn dắt con trên con đường đức tin, để từ đó, con luôn sống trong ánh sáng của tình yêu và sự tha thứ, như lời của Chúa Giêsu đã ban.

Nhân danh Chúa Kitô, con dâng lời cầu nguyện thành kính này, xin Chúa xưng danh, ban ơn và phù hộ cho con và cho cả cộng đoàn chúng con, để mỗi khi con đến trước bàn thờ, lòng con luôn tràn đầy niềm tin, hy vọng và tình yêu thương thiêng liêng.

Amen.

2. TÔN VINH THÁNH THỂ

Chúng ta dâng lên lòng mình lời tôn vinh Thánh Thể trong giờ Chầu Thánh Thể, nhớ về những khoảnh khắc thiêng liêng khi Đức Giêsu dâng hiến chính Ngài cho nhân loại trong Bài Thương Khó (Ga 18,1–19,42). Trong Thánh Thể, chúng ta thấy hiển lộ tình yêu vô bờ của Thiên Chúa, tình yêu đã khiến Con Thiên Chúa chịu đựng mọi oan uổng, khổ nạn và thậm chí là cái chết dã man trên thập giá, chỉ để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Lời của Đức Giêsu, được gửi gắm qua mỗi nhịp đập của thời khắc giao hòa giữa con người với Thiên Chúa, chính là lời hứa vĩnh cửu rằng ai nghe lời Ngài và tin tưởng vào Đấng đã sai Ngài sẽ được sống, được dẫn dắt từ cõi chết bước vào cõi sống. Trong Thánh Thể này, không chỉ hiện hữu sự hiệp thông của thân xác và linh hồn mà còn là nguồn an ủi, là niềm hy vọng cho mọi linh hồn đang tìm kiếm ánh sáng giữa những bóng tối của cuộc đời. Nhìn lại những phút giây đau thương và vĩ đại của Đức Giêsu qua Bài Thương Khó, chúng ta càng thấm nhuần được ý nghĩa của sự hiến tế thiêng liêng ấy – một sự kết hợp hoàn hảo giữa tình yêu thương, sự tha thứ và ân sủng của Thiên Chúa. Hãy cùng nhau tôn vinh Thánh Thể, nhận lấy cơ thể và máu của Đấng Cứu Thế, như lời cam kết gắn bó suốt đời với nguồn sống linh hồn, để từ đó, chúng ta luôn được sống trong ánh sáng của sự cứu rỗi và tình yêu thương vĩnh cửu của Cha.

Hát: "Đây Nhiệm Tích" hoặc một bài hát Thánh Thể phù hợp.

3. LẮNG NGHE LỜI CHÚA

LỜI CHÚA:

BÀI THƯƠNG KHÓ: Ga 18,1-19,42

Phúc Âm: Ga 18, 1 – 19, 42

“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:

J. “Các ngươi tìm ai?”

C. Chúng thưa lại:

S. “Giêsu Nadarét”.

C. Chúa Giêsu bảo: “Ta đây”.

C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói “Ta đây”, bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:

J. “Các ngươi tìm ai?”

C. Chúng thưa:

S. “Giêsu Nadarét”.

C. Chúa Giêsu đáp lại: “Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi”.

C. Như thế là trọn lời đã nói: “Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con”. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:

J. “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!”

C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:

S. “Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?”

C. Ông đáp:

S. “Tôi không phải đâu”.

C. Ðám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:

J. “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói”.

C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:

S. “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư”.

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?”

C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông:

S. “Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?”

C. Ông chối và nói:

S. “Tôi không phải đâu”.

C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:

S. “Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?”

C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.

Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:

S. “Các ngươi tố cáo người này về điều gì”.

C. Họ đáp:

S. “Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan”.

C. Philatô bảo họ:

S. “Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông”.

C. Nhưng người Do-thái đáp lại:

S. “Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả”.

C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:

S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?”

C. Philatô đáp:

S. “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này”.

C. Philatô hỏi lại:

S. “Vậy ông là Vua ư?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi”.

C. Philatô bảo Người:

S. “Chân lý là cái gì?”

C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:

S. “Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?”

C. Họ liền la lên:

S. “Không phải tên đó, nhưng là Baraba”.

C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói:

S. “Tâu Vua Do-thái!”

C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:

S. “Ðây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án”.

C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:

S. “Này là Người”.

C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:

S. “Ðóng đinh nó vào thập giá! Ðóng đinh nó vào thập giá!”

C. Philatô bảo họ:

S. “Ðấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông”.

C. Người Do-thái đáp lại:

S. “Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa”.

C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:

S. “Ông ở đâu đến?”

C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:

S. “Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn”.

C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:

S. “Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa”.

C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:

S. “Ðây là vua các ngươi”.

C. Nhưng họ càng la to:

S. “Giết đi! Giết đi! Ðóng đinh nó đi!”

C. Philatô nói:

S. “Ta đóng đinh vua các ngươi ư?”

C. Các thượng tế đáp:

S. “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa”.

C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.

Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: “Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái”. Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:

S. Xin đừng viết “Vua dân Do Thái”, nhưng nên viết: “Người này đã nói: ‘Ta là vua dân Do-thái'”.

C. Philatô đáp:

S. “Ðiều ta đã viết là đã viết”.

C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:

S. “Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy”.

C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta”. Chính quân lính đã làm điều đó.

Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:

J. “Hỡi Bà, này là con Bà”.

C. Rồi Người lại nói với môn đệ:

J. “Này là Mẹ con”.

C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:

J. “Ta khát!”

C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:

J. “Mọi sự đã hoàn tất”.

C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người”. Lời Kinh Thánh khác rằng: “Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua”.

Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.

SUY NIỆM

Trong những giờ chầu khuya của đêm vắng, giữa bóng tối của thế gian và tiếng lòng rộn rã của tâm hồn, tôi cùng với bao linh hồn đang khát khao tìm về sự thật đã được ghi dấu trong Tin Mừng, bước qua những câu chữ linh thiêng của Ga 18,1-19,42. Tôi ngồi lặng giữa không gian tĩnh lặng, nơi mà mỗi hơi thở như vang vọng tiếng bước chân của Đấng đã chịu đựng hết mọi thử thách, của Người đã yêu thương đến cùng để hy sinh vì chúng ta. Những lời tường thuật ấy như những vệt sáng giữa màn đêm u tối, gợi nhắc tôi về đêm cuối cùng, đêm của nỗi thương và của tình yêu trọn vẹn. Tôi nhớ đến lúc những lời buộc tội, những lời phản bội vang lên như âm vang của sự phản bội và bội phản, khi Đấng Cứu Thế bước vào sân của sự nghi ngờ và đau đớn. Sự im lặng của đêm chầu như một lời mời gọi tôi chìm sâu vào ký ức của đêm ấy, để qua đó cảm nhận được nỗi cô đơn của Người, nỗi cô đơn khi bị bỏ rơi, khi những người thân yêu quay lưng và khi sự thật dường như đang bị nhấn chìm dưới lớp bóng tối của sự bất công.

Tôi tự hỏi, liệu trong khoảnh khắc ấy, giữa những tiếng gào thét, giữa những lời buộc tội gay gắt của kẻ thù, liệu có một tia hy vọng nhỏ nhoi vẫn lóe lên từ trong trái tim của Người? Đó là tia hy vọng mà tình yêu thương và sự hy sinh của Đấng Cứu Thế mang lại cho chúng ta – một lời hứa về sự sống đời đời, về sự tha thứ và sự tự do vượt lên trên những định kiến của con người. Trong từng lời kể của Tin Mừng, tôi cảm nhận được nỗi đau không chỉ của một thân thể bị đánh đập, mà còn là nỗi đau của một tâm hồn yêu thương, của một con người đã biết từ bỏ tất cả để trao trọn cuộc đời mình cho sứ mệnh cao cả. Những câu chuyện về cuộc khổ nạn ấy như những bài ca buồn đầy đặn, nhưng lại ẩn chứa bên trong chúng một vẻ đẹp bi tráng, một vẻ đẹp của sự hi sinh không lời, của một tình yêu vượt qua mọi giới hạn của thời gian và không gian.

Những phút giây cuối cùng trên án, khi ánh mắt của Đấng Cứu Thế tràn đầy niềm an ủi và buồn bã, khi tiếng thở dài của Người vang vọng giữa gian khổ, như lời thì thầm của tình thương vô bờ, đã nhắc nhở tôi rằng, sự hy sinh ấy không phải là kết thúc mà là khởi đầu của một hành trình mới – hành trình đưa con người từ cõi chết bước vào cõi sống, từ nỗi đau đến niềm vui, từ sự mất mát đến sự trọn vẹn của sự sống đời đời. Tôi cảm nhận được trong mỗi câu chữ, trong mỗi lời nói của Người, không chỉ là sự chịu đựng của một thân thể mong manh, mà còn là sức mạnh của niềm tin, là khả năng biến nỗi đau thành nguồn động lực để thắp sáng con đường cho bao người lạc lõng. Cảm xúc ấy chảy tràn qua tâm hồn tôi như dòng nước mát lành, xua tan hết những mệt mỏi, những lo âu của cuộc đời.

Tôi nhớ đến những lúc Người bị đưa ra trước công an, trước những lời buộc tội không công bằng, khi mà mọi sự công bình của thế gian dường như quay lưng lại với Người. Đôi mắt Người, nhìn thẳng vào trái tim của mỗi con người, như muốn nói rằng, “Dù thế gian có đánh đập ta, dù lời buộc tội của chúng ta có vang lên, nhưng tình yêu của Cha vẫn bao trùm hết thảy, và từ trong nỗi đau này, sẽ nảy mầm niềm sống mới.” Đó là một thông điệp mạnh mẽ mà tôi cảm nhận được – thông điệp của sự tha thứ, của lòng nhân ái, của niềm tin rằng, dù có bao nhiêu vết thương trên thân xác, thì tình yêu thiêng liêng vẫn luôn là liều thuốc chữa lành cho tâm hồn. Từng lời nói của Người, dù nói ra trong cơn đau đớn và cô đơn, vẫn chứa đựng sự bao dung và tha thứ cho những kẻ đã phản bội, cho những kẻ đã làm hại Người.

Trong lúc ấy, tôi không khỏi tự hỏi về chính bản thân mình: Liệu tôi đã đủ can đảm để đối mặt với những vết thương tâm hồn, để chấp nhận những sai lầm của mình và dám bước tiếp trên con đường tìm kiếm sự sống đời đời? Đêm chầu này, trong không gian tĩnh lặng của tâm trí, tôi như nghe thấy tiếng gọi của Người, tiếng thì thầm đầy ấm áp và dịu dàng, nhắc nhở tôi rằng, chính trong những khoảnh khắc yếu đuối, khi tôi cảm thấy mình bế tắc, chính đó là lúc tình yêu của Cha dâng trào, là lúc mà sự sống trọn vẹn đang chờ đón. Mỗi giọt nước mắt, mỗi nhịp thở đều mang trong nó hy vọng của sự tha thứ, của một khởi đầu mới, của một mối quan hệ bền vững với Đấng đã chịu đựng và hy sinh vì tôi.

Tôi nhớ lại hình ảnh Người khi bị hành hình, hình ảnh đó in sâu vào tâm trí như một vết thương không bao giờ lành, nhưng đồng thời cũng là nguồn cảm hứng để tôi sống một cuộc đời ý nghĩa. Những giây phút ấy, khi mà sự im lặng của đêm dường như nói lên tất cả những gì mà lời nói không thể diễn tả, đã khiến tôi cảm nhận được sự hiện diện thiêng liêng của tình yêu vĩ đại. Tôi cảm thấy rằng, trong từng khoảnh khắc của sự khổ đau ấy, Đấng Cứu Thế không chỉ chịu đựng cho riêng mình mà còn chịu đựng cho tất cả chúng ta – cho những tâm hồn yếu đuối, cho những trái tim đang tìm kiếm lối thoát khỏi cơn bão của đời sống. Chính từ trong nỗi đau ấy, tôi nhận ra rằng, sự sống đời đời không phải là điều xa vời, không phải là ảo ảnh của những lời hứa hão huyền, mà là hiện thực mà mỗi chúng ta có thể chạm vào, nếu ta biết mở lòng, nếu ta biết tin tưởng vào nguồn sức mạnh vô tận của tình yêu thương.

Những tiếng thở dài, những lời than van của người dân, những lời buộc tội gay gắt của những kẻ không hiểu được sự sâu sắc của tình yêu, tất cả như hòa quyện vào nhau thành một bản hòa ca buồn, nhưng lại mang theo thông điệp của sự cứu rỗi. Tôi cảm nhận được trong đó sự hối hận của một nhân loại lầm lỗi, sự khao khát được được tha thứ và được sống trọn vẹn trong ánh sáng của sự thật. Đêm chầu ấy, khi tâm hồn tôi được mở ra, tôi như nghe thấy tiếng gọi của Đấng Cứu Thế, tiếng gọi mời gọi mỗi con người hãy nhìn nhận lại chính mình, hãy buông bỏ những vết thương, những hận thù và hãy sống với niềm tin rằng, dù cho mọi thứ xung quanh có thay đổi, tình yêu của Cha vẫn không bao giờ phai nhạt.

Trong khoảnh khắc thiêng liêng ấy, tôi cùng với bao tâm hồn đang cầu nguyện, cùng nhau trải qua những phút giây đầy xúc động và đằm thắm. Tôi ngẫm nghĩ về thông điệp của Tin Mừng, về lời hứa về sự sống đời đời, về niềm tin rằng, ngay cả trong những lúc tối tăm nhất, tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn là nguồn sáng dẫn lối cho con người. Đêm chầu không chỉ là thời khắc của sự nhớ thương mà còn là thời khắc của sự hồi sinh, của sự thay đổi, của một khởi đầu mới cho tâm hồn mệt mỏi. Tôi cảm nhận được rằng, dù có bao nhiêu khó khăn, dù có bao nhiêu thử thách, thì trong tình yêu của Cha luôn luôn có một lối thoát, có một hy vọng mới mẻ cho những ai biết lắng nghe và biết tin.

Giữa những tiếng gió rít qua khung cửa sổ, giữa ánh đèn le lói của ngọn nến và sự im lặng đầy trữ tình của đêm, tôi như cảm nhận được hơi thở của Đấng Cứu Thế, như thấy được hình bóng Người đang chịu đựng mọi đau đớn để ban cho chúng ta một điều kỳ diệu – sự sống đời đời. Tôi cảm nhận được trong từng giọt mồ hôi, từng giọt máu chảy trên thân xác Người, không chỉ là nỗi đau vật lý mà còn là sự rạn nứt của tấm lòng, là niềm hy vọng của một tương lai nơi tình yêu sẽ chiến thắng cả cái chết. Mỗi câu chuyện, mỗi chi tiết của Tin Mừng dường như đang nhắc nhở tôi rằng, sự tha thứ không đến từ sự hiểu biết của con người, mà là từ một tình yêu vô bờ bến, một tình yêu đã được hy sinh trọn vẹn trên cây thập giá.

Đêm chầu ấy, khi tâm hồn tôi trở nên tràn đầy xúc động và đượm buồn, tôi cùng với bao linh hồn tìm về cội nguồn của sự sống, tìm về nguồn ánh sáng mà Cha đã ban cho chúng ta. Tôi tự hỏi liệu mình có đủ dũng khí để từ bỏ những điều hèn nhát, để bước ra khỏi vùng an toàn của chính mình và sống thật với niềm tin vào Đấng Cứu Thế. Tôi biết rằng, con đường ấy không hề dễ dàng, rằng nó đòi hỏi mỗi người phải hy sinh, phải chịu đựng và phải vượt qua những giới hạn của bản thân. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, khi mà mỗi trái tim đều rung động bởi niềm tin, khi mà mỗi tâm hồn đều được sưởi ấm bởi tình yêu thiêng liêng, thì mọi nỗi đau, mọi vết thương đều trở nên nhẹ nhàng hơn, trở nên có ý nghĩa hơn.

Tôi ngồi đây, giữa ánh sáng mờ ảo của ngọn nến, lắng nghe tiếng lòng của chính mình, lắng nghe tiếng gọi của Đấng Cứu Thế. Tôi nhận ra rằng, dù cuộc sống có đầy rẫy những thử thách, những vấp ngã, thì niềm tin vào tình yêu của Cha luôn luôn là nguồn sức mạnh để tôi đứng vững, để tôi vượt qua được mọi khó khăn. Đêm nay, trong tiếng thở dài của gió và trong sự im lặng của tâm hồn, tôi xin dâng trọn tất cả những niềm tin, những hy vọng và cả những giọt nước mắt của mình lên đấng đã chịu đựng và hy sinh vì tôi. Tôi xin được sống trọn vẹn với tình yêu ấy, được hòa mình vào dòng chảy của sự tha thứ và được tìm thấy sự sống đời đời – một sự sống không chỉ thuộc về thế gian mà còn thuộc về cõi vĩnh hằng, thuộc về tình yêu của Thiên Chúa.

Trong niềm tin ấy, tôi khép lại những suy niệm của mình với lòng biết ơn sâu sắc, với hy vọng rằng, mỗi chúng ta sẽ luôn giữ cho trái tim mình một chỗ dành cho tình yêu thương, cho sự tha thứ và cho niềm tin vào sự sống trọn vẹn mà đêm chầu này đã khắc sâu. Và khi tiếng chuông của bình minh dần vang lên, khi ánh sáng ban mai len lỏi qua từng kẽ cửa, tôi tin rằng, sự sống đời đời sẽ mãi là lời hứa thiêng liêng được ghi dấu qua từng giọt máu, từng giọt nước mắt và từng hơi thở của Đấng Cứu Thế.

LỜI NGUYỆN NGẮN

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa yêu thương, qua lời Tin Mừng trong bài Thương Khó (Ga 18,1-19,42) con xin dừng lại, lắng nghe tiếng gọi của Ngài giữa đêm tối của nỗi đau và sự hy sinh. Trong giờ Chầu Thánh Thể này, con xin dâng lên lòng biết ơn sâu sắc vì Ngài đã chịu đựng mọi đau khổ, hi sinh mạng sống của mình vì tội lỗi của nhân loại. Con cầu nguyện xin cho tình yêu và lòng nhân từ của Ngài được sống mãi trong con, giúp con noi gương sự vâng lời của Ngài, sống theo ý Cha, yêu thương và tha thứ. Xin ban cho con sức mạnh, sự an ủi và hy vọng, để dù trong lúc gian truân, con luôn nhớ rằng tình thương của Ngài là ngọn đèn soi sáng con đường đời. Lạy Chúa, xin dạy con biết trao yêu thương không điều kiện, biết sẻ chia và cảm thông, để mỗi hành động của con đều trở nên sống động như tấm gương của Ngài. Trong thánh thể này, con xin đón nhận ân sủng của Ngài, hân hoan sống trong sự tha thứ và phục hồi, đến khi con chung vui trong vinh quang của sự sống đời đời. Amen.

4. CẦU NGUYỆN CHUNG

Hát Xen Giữa: "Lòng Chúa Xót Thương"

Lời Nguyện Chung:

 

  Lạy Chúa Giêsu, sau giờ Chầu Thánh Thể, chúng con cúi đầu trước ơn cứu độ được ban qua cuộc chịu đựng và tình yêu vĩ đại của Ngài. Xin ban cho chúng con sức mạnh chịu đựng những gian truân đời thường, biết tha thứ cho kẻ đã làm hại, và sống theo tấm gương hy sinh của Chúa.

  Lạy Chúa, trong bài thương khó của Ngài, chúng con thấy được đức tin kiên trung giữa bao thử thách. Xin soi sáng tâm hồn chúng con bằng ánh sáng của ơn Chúa, giúp chúng con luôn kiên định trong niềm tin, sống đoàn kết như một gia đình Kitô hữu, và lan tỏa yêu thương đến mọi người xung quanh.

  Lạy Chúa Giêsu, qua từng giờ phút chịu đựng và những giờ chờ đợi trước Thập giá, chúng con nhận ra tầm quan trọng của sự ăn năn và hối cải. Xin dẫn dắt chúng con trở thành những đứa con vâng lời, biết nhận lấy ơn tha thứ của Ngài, từ đó được sống một cuộc đời thanh khiết và đầy ý nghĩa.

  Lạy Chúa, trong cái chết của Ngài, chúng con tìm thấy lời hứa về sự sống đời đời. Xin cho chúng con luôn trân trọng ơn cứu rỗi ấy, biết sống trọn vẹn theo Lời Chúa, để mỗi con người trong chúng con trở thành ngọn đuốc hy vọng, lan tỏa ánh sáng của tình yêu và sự sống đến với cả thế gian.

5. THINH LẶNG VÀ GẶP GỠ CHÚA

Thinh Lặng Chiêm Ngắm:

Mời cộng đoàn dành vài phút thinh lặng, đặt hết tâm hồn trước Chúa Thánh Thể, nói chuyện với Ngài và dâng lên Ngài những ưu tư, nguyện ước của bản thân.

6. KẾT THÚC VÀ PHÉP LÀNH THÁNH THỂ

Hát: Tùy chọn

Phép Lành Thánh Thể:

Linh mục hoặc phó tế ban phép lành Thánh Thể.

LỜI CẢM TẠ:

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa yêu thương,

Hôm nay, trong khoảnh khắc thiêng liêng của giờ chầu Thánh Thể, con dâng lên lòng biết ơn sâu sắc vì công trình cứu chuộc của Ngài. Qua bài Tin Mừng theo lời Chúa Giêsu trong Giăng 18,1 – 19,42, con thấy rõ hình ảnh của một Chúa – Người yêu thương, chịu đựng khổ đau vô bờ để chuộc tội cho loài người. Trong cái chết đầy thương xót ấy, Ngài mở đường cho niềm hy vọng sống lại, cho trái tim chúng con được thắp sáng bởi ân điển và lòng nhân từ.

Chúa ơi, qua cái chết của Ngài, con nhận ra rằng tình yêu không bao giờ khuất phục trước đau thương hay thử thách. Con xin dâng trọn niềm tin và khát khao sống của mình vào bàn tay Chúa, để mỗi hơi thở, mỗi suy tư của con luôn phản chiếu vẻ đẹp của sự hy sinh, của đức tin bền vững. Xin giúp con sống theo lời dạy của Ngài, biết yêu thương và tha thứ như Ngài đã dạy, biết chia sẻ niềm vui lẫn nỗi buồn cùng những anh chị em đồng hành trên con đường đời.

Trong giờ chầu Thánh Thể này, con xin dâng lòng mình vào sự hiện hữu thiêng liêng của Ngài, cảm nhận sự sống được ban tặng qua mỗi hạt bánh và mỗi giọt rượu thánh. Xin cho linh hồn con luôn biết yêu, luôn cảm tạ Chúa qua từng phút giây, để qua đó, con thêm kiên trì bước theo con đường đã được Ngài chỉ dẫn. Lạy Chúa, xin đừng rời xa con, hãy tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho con đối diện với những thử thách của cuộc đời.

Con cảm ơn Chúa vì sự cứu rỗi, vì tình yêu bao la của Ngài, và xin dâng trọn cuộc đời này làm lời cảm tạ mãi mãi. Trong niềm hy vọng sống lại của sứ mệnh thiêng liêng, con kính dâng mọi sự vinh quang, mọi ơn phước của Ngài.