Chia Sẻ Niềm vui trong Thánh Thần -Món Quà Mùa Đông: Những cây mãi Xanh
- T6, 20/12/2024 - 05:23
- Phạm Văn Trung
Chia Sẻ Niềm vui trong Thánh Thần
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng luôn được cử hành vào ngày 31 tháng Năm hằng năm. Vậy Giáo hội muốn nói điều gì với tín hữu khi mời gọi họ đọc lại đoạn Tin Mừng về Cuộc Thăm Viếng này vào Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng? Đây đúng là những gì chương đầu tiên của sách Tin Mừng Luca muốn nói, đó là Thiên Chúa làm những điều phi thường nhất thông qua những con người bình thường nhất. Thiên Chúa chọn một vùng xa xôi hẻo lánh của tỉnh Syria thuộc La Mã, thị trấn Nadarét, để bắt đầu câu chuyện phi thường nhất. Rồi thì Thiên Chúa lại đặt một cô gái trẻ bên cạnh một người phụ nữ đã quá tuổi, hiếm muộn, để khởi đầu một kế hoạch đầy phấn khởi. Thiên Chúa đang biến đổi sự sống phàm nhân tầm thường của con người thành bản tính thần thánh vinh quang đáng kinh ngạc của Ngài. Chúa Giêsu vừa là con người trọn vẹn, bình thường, vừa là Con Thiên Chúa phi thường đầy vinh quang. Tất cả những điều phi thường này đều do Chúa Thánh Thần thực hiện nơi những con người quá đỗi bình thường. Đó chính là nội dung của bài Tin Mừng hôm nay.
1. Cùng Mẹ Maria đem Chúa Giêsu đến cho mọi người
Trình thuật về Cuộc viếng thăm này xuất phát từ chương đầu tiên của sách Luca và nằm ngay sau Cuộc Truyền tin, khi Mẹ Maria được một thiên thần viếng thăm và cho biết Mẹ sẽ là Mẹ của Con Thiên Chúa: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Ngài sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Ngài. Ngài sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Ngài sẽ vô cùng vô tận” (Luca 1:26-38). Mẹ Maria cũng được sứ thần Gabriel cho biết bà Êlisabét mang thai: “Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1: 36-37).
Mẹ Maria lên đường đi thăm người chị họ Êlisabét sống ở một thị trấn trên đồi ở Giuđêa, một khu vực trải dài từ Emmau ở phía Tây đến sông Gioócđan ở phía Đông và bao quanh Giêrusalem: “Bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1: 39).
Đây là một cuộc gặp gỡ vui mừng giữa hai người phụ nữ mang thai, Mẹ Maria và người chị họ Êlisabét. Mẹ Maria “vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét” (Lc 1: 40). Chúa Thánh Thần hoạt động ở đây và trong một khoảnh khắc đầy tràn Thánh Thần, bà Êlisabét cảm thấy rằng việc mang thai của bà báo hiệu rằng Chúa đã đoái nhìn đến bà và thừa nhận vai trò của Mẹ Maria là mẹ của Đấng Mêsia: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43). Sau này Hội Thánh dựa trên danh xưng “Thân Mẫu Chúa tôi” để tôn vinh Mẹ Maria là “Mẹ Thiên Chúa“ (θεοτόκος), và trở nên lời cầu của mọi tín hữu trong Kinh Kính Mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…”
Bà Êlisabét là vợ của ông Dacaria, “một vị tư tế thuộc nhóm Avigia” (Lc 1:5) và sẽ là mẹ của Gioan Tẩy giả. Bà đã lớn tuổi và bị hiếm muộn. Thế nhưng Thiên Chúa đoái thương đến ông bà, sai: “Sứ thần bảo ông: Này ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan” (Lc 1:13), cùng với thông điệp về sứ mệnh tương lai của Gioan: “Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan…Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa…Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Israel về với Chúa là Thiên Chúa của họ” (Lc 1:14-17). Chính sự hiếm muộn này đã báo trước về ý nghĩa to lớn của Gioan Tẩy giả, giống như Sara, mẹ của Isaac, và Anna, mẹ của Samuel, trong Cựu Ước.
Thánh Luca không nhắm nhiều đến tính lịch sử cho bằng ý nghĩa thần học của cuộc thăm viếng. Luca đưa hai người phụ nữ lại với nhau để cho thấy mối liên quan trong vai trò của họ: đứa con của bà Êlisabét là tiền hô cho đứa con của Mẹ Maria. Bà Êlisabét biết và công bố việc Mẹ Maria mang thai và sứ mạng của Chúa Giêsu - những điều trước đây không ai biết đến: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc… Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1: 42, 45).
Mẹ Maria cảm thấy thế nào khi nghe những lời bà Êlisabét nói với Mẹ? Mẹ đã cảm nghiệm sự kính trọng lớn lao từ bà Êlisabét. Bà Êlisabét vui mừng tuyên bố mẹ Maria là Mẹ của Thiên Chúa; nhưng ở đây không chỉ có thần học mà còn có tu đức học: sự kính sợ và niềm vui đầy tràn Thánh Thần. Thánh Luca đã nắm bắt đúng cảm xúc của khoảnh khắc đó. Hai người phụ nữ vừa là họ hàng vừa là bạn bè và lúc này cả hai đều chia sẻ một mối liên hệ thậm chí còn thân thiết hơn trước vì mỗi người đều đang mong đợi đứa con đầu lòng của mình, những người con trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Gioan sẽ là con trẻ làm cho người cha già Dacaria “được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa” (Lc 1:14-15). Còn hài nhi Giêsu “sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1:32) là “Đấng Thánh sắp sinh ra được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35).
Dù đang mang thai, Mẹ Maria đã lên đường. Mẹ mang Chúa trong mình đến cho người khác. Điều này nhắc nhở chúng ta về con người của chúng ta ngày hôm nay: chúng ta có mang Chúa trong mình như nguồn nuôi dưỡng cho chúng ta và cho những người chung quanh chúng ta không?
2. Hành trình của Mẹ Maria và hành trình cuộc đời chúng ta
“Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1:39). Chỉ có một dòng ghi lại hành trình dài của Mẹ để gặp người chị họ của mình. Có lẽ chúng ta cần phải dừng lại dòng chữ này và xem coi Mẹ Maria đã cảm thấy những gì trong suốt hành trình đến thăm bà Êlidabét.
Đối với Mẹ Maria, sự hy sinh bắt đầu từ chính chuyến đi! Cuộc viếng thăm đã mang đến nhiều rủi ro cho Mẹ Maria, khi người ta tìm hiểu về địa lý và những trở ngại mà Mẹ Maria phải vượt qua để đến thăm bà Êlisabét. Đó là một chặng đường dài từ Nadarét đến Ein Karem, một thị trấn nhỏ trên đồi Giuđêa, nơi mà theo truyền thống, ông Dacaria và bà Êlidabét đang sống. Ein Karem nằm ở ngoại ô Giêrusalem và cao khoảng hơn 800 mét so với mực nước biển, trong khi Nadarét cao khoảng 380 mét. Điều này có nghĩa là Mẹ Maria phải vượt qua độ cao 420 mét!
Bên cạnh những tổn hại về thể chất mà Mẹ Maria mới mang thai phải gánh chịu, con đường mà Mẹ đi còn ẩn chứa nhiều nguy hiểm, vì đó là con đường đất quanh co qua vùng núi được cho là nơi thường xuyên xảy ra cướp bóc, chúng sẽ bất ngờ tấn công những du khách không cảnh giác. Theo nhà văn JA Loarte thì rất có thể chính thánh Giuse là người sắp xếp chuyến đi, tìm kiếm một đoàn lữ hành mà Mẹ Maria có thể cùng đi một cách an toàn. Cũng có thể bản thân thánh nhân đã đi cùng Mẹ, ít nhất là đến tận Giêrusalem. Một số nhà chú giải thậm chí còn nghĩ rằng thánh nhân đã đi cùng Mẹ Maria đến tận Ain Karim, chỉ cách thủ đô Giêrusalem năm dặm. Nếu vậy, ngài sẽ cần phải quay trở lại xưởng làm việc của mình ở Nadarét ngay. Và ba tháng sau, thánh Giuse phải quay lại đây để đưa Mẹ Maria về Nadarét.
Vậy, hành trình đó sẽ như thế nào? Mẹ Maria cảm thấy, suy nghĩ và cân nhắc điều gì trên suốt chặng đường?
Một số phụ nữ chia sẻ những cảm giác khác nhau ngay từ khoảnh khắc thụ thai. Họ cảm nhận sự sống đang lớn dần lên trong họ. Họ tin tưởng, hy vọng, phấn khởi, tràn đầy niềm vui và cảm thấy háo hức, chờ đón những điều thú vị sắp tới. Những người khác có cảm xúc phức tạp hơn về thai kỳ, đặc biệt trong những tuần đầu tiên. Có thể họ không kiểm soát được cảm giác lo lắng quá nhiều về mọi thứ, đặc biệt là về sức khỏe hoặc về thai nhi, về khả năng xảy ra những nguy cơ khuyết tật và điều đó sẽ nguy hại cho con của họ và cho chính họ. Có thể việc mang thai gây ra những căng thẳng về thể lý, tâm lý, cảm xúc [1]. Có lẽ Mẹ Maria, khi đi trên con đường dài gần 160 cây số, cũng cảm thấy niềm vui, phấn khởi và hy vọng, nhưng có lẽ, về tính người, Mẹ cũng không khỏi cảm thấy ít nhiều lo lắng, và gánh nặng. Thậm chí Mẹ cũng phải mất nhiều ngày mới đến được nhà người chị họ. Đối với một người phụ nữ mới mang thai, đó hẳn là khoảng thời gian khá dài khi cưỡi lừa, và còn dài hơn nếu đi bộ. Đó là khoảng thời gian để Mẹ suy ngẫm về sự sống đang lớn lên trong lòng Mẹ và những lời mà Mẹ vừa thưa với Chúa qua sứ thấn.
Tuy nhiên Mẹ Maria không nghĩ đến bản thân mình nhiều quá; Mẹ không quan tâm đến tình trạng mong manh của chính mình cũng đang mang thai! Mẹ không bị ám ảnh với nhu cầu cá nhân của mình. Mẹ tin rằng Thiên Chúa sẽ bảo vệ Mẹ để Mẹ giúp đỡ người chị họ già cả của mình. Mẹ Maria biết rõ rằng bà Êlidabét là một phụ nữ lớn tuổi, đã qua tuổi sinh đẻ bình thường. Ai cũng biết, nhất là các phụ nữ đều biết, mang thai không phải là việc dễ dàng ngay cả khi người phụ nữ còn trẻ. Mẹ Maria biết rõ điều đó! Mẹ cũng biết rằng chị họ của Mẹ sẽ cần hỗ trợ đặc biệt vì tuổi cao của bà, đặc biệt là trong ba tháng cuối của thai kỳ. Đó là lý do tại sao Kinh thánh nói rằng Mẹ đã “vội vã” đến nhà của bà Êlidabét và ông Dacaria. Mẹ tập trung vào sức khỏe và hạnh phúc của người khác, và Mẹ sẵn sàng hy sinh bản thân và làm mọi thứ cần thiết để giúp đỡ người đó khi họ cần. Tình yêu đích thực là tình yêu hy sinh bản thân, đó là tình yêu của Mẹ Maria dành cho bà Êlidabét.
Khi chúng ta bước vào những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, chúng ta tự hỏi: liệu chúng ta có tin rằng Mẹ Maria cũng đang đi cùng chúng ta trên đường đời không? Hơn nữa, việc suy ngẫm về con đường dài của Mẹ Maria đi gặp bà Êlidabét nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa không chỉ hiện diện với chúng ta ở đích đến mà còn ở mọi khúc quanh và ngã rẽ trong đời. Thiên Chúa vẫn đang làm cho điều nhỏ bé tầm thường trở nên thánh thiêng, như ngôn sứ Mikha tuyên sấm trong bài đọc thứ nhất: “Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Iseael. Nguồn gốc của Ngài có từ thời trước, từ thuở xa xưa” (Mk 5:1). Đây chính là vẻ đẹp thực sự, là mầu nhiệm nhập thể: Chúa Giêsu giáng sinh.
[1] https://www.mediplus.vn/san-khoa/tam-ly-ba-bau-3-thang-dau.html
Phêrô Phạm Văn Trung
*********
Món Quà Mùa Đông: Những cây mãi Xanh
Mùa đông đang đến, và những chú chim đã bay xa về phía nam, nơi không khí ấm áp và chúng có thể tìm thấy quả mọng để ăn. Một chú chim nhỏ bị gãy cánh và không thể bay cùng những chú khác. Chú chim nhỏ đơn độc trong thế giới giá lạnh của băng giá và tuyết. Khu rừng trông ấm áp, và nó cố gắng hết sức để đến gần những cái cây, để cầu xin sự giúp đỡ.
Đầu tiên, nó đến một cây bạch dương. Nó nói, “Bạch dương xinh đẹp ơi, cánh của tôi bị gãy, và bạn bè tôi đã bay đi. Tôi có thể sống giữa những cành cây của bạn cho đến khi họ quay trở lại với tôi không?”
Cây bạch dương kéo những chiếc lá xanh tươi của mình xa khỏi chú chim rồi trả lời: “Không được đâu, thực sự là vậy. Chúng tôi là người của khu rừng lớn, chúng tôi có những chú chim của riêng mình để giúp đỡ. Tôi không thể làm gì cho bạn.”
Chú chim nhỏ tự nhủ, “Cây bạch dương không khỏe lắm và có lẽ không thể dễ dàng giữ nổi mình.”
“Mình sẽ hỏi cây sồi.” Thế là chú chim nói: “Sồi lớn ơi, bạn khỏe quá, bạn sẽ không để tôi sống trên cành của bạn cho đến khi bạn bè tôi trở về vào mùa xuân sao?”
Cây sồi kêu lên. “Vào mùa xuân ư! Còn lâu lắm. Làm sao tôi biết bạn có thể làm gì trong suốt thời gian đó? Chim chóc luôn tìm kiếm thứ gì đó để ăn, và bạn thậm chí có thể ăn hết một số quả sồi của tôi.”
Con chim nghĩ có thể cây liễu sẽ tử tế với mình, nên nói: “Liễu hiền lành ơi, cánh của tôi bị gãy, và tôi không thể bay về phía nam với những con chim khác. Tôi có thể sống trên cành của bạn cho đến mùa xuân không?”
Lúc đó, cây liễu trông không còn hiền lành, nó đứng thẳng dậy một cách kiêu kì và nói: “Thật vậy, tôi không biết bạn, và chúng tôi, những cây liễu, không bao giờ nói chuyện với những người mà chúng tôi không biết. Rất có thể có những cái cây ở đâu đó sẽ tiếp nhận những con chim lạ. Hãy tránh xa tôi ngay lập tức.”
Con chim nhỏ tội nghiệp không biết phải làm gì. Cánh của nó vẫn chưa khỏe, nhưng nó bắt đầu bay đi nhanh chừng nào có thể. Trước khi chú chim bay xa, một giọng nói vang lên.
“Chim nhỏ ơi, bạn đang đi đâu vậy?”
Chú chim buồn bã trả lời: “Tôi thật không biết. Tôi rất lạnh.”
Cây vân sam thân thiện nói: “Vậy thì hãy đến đây.” Đó là giọng của cây vân sam.
“Bạn sẽ sống trên cành ấm nhất của tôi suốt mùa đông nếu bạn muốn.”
Chú chim nhỏ háo hức hỏi: “Bạn thực sự sẽ để tôi sống trên cành của bạn chứ?”
Cây vân sam tốt bụng trả lời: “Thật vậy, tôi sẽ để bạn sống trên cành của tôi. Nếu bạn bè của bạn đã bay đi, thì đã đến lúc những cái cây giúp bạn. Đây là cành của tôi, lá của tôi dày và mềm nhất.”
Một cây thông thân thiện gần đó nói: “Cành của tôi không dày lắm, nhưng tôi to và khỏe, và tôi có thể ngăn Gió Bấc không thổi vào bạn và vào cây vân sam.”
Một cây bách xù nhỏ nói: “Tôi cũng có thể giúp bạn. Tôi có thể cho bạn quả mọng suốt mùa đông, và mọi loài chim đều biết rằng quả bách xù rất ngon.”
Vì vậy, cây vân sam đã cho chú chim nhỏ cô đơn một ngôi nhà; cây thông giữ cho Gió Bấc lạnh lẽo tránh xa chú chim nhỏ; và cây bách xù đã cho chú chim nhỏ những quả mọng để ăn.
Những cây khác nhìn vào và cùng nhau nói chuyện một cách khôn lỏi.
Cây bạch dương nói: “Tôi sẽ không để những con chim lạ trên cành của tôi.”
Cây sồi nói: “Tôi sẽ không cho bất cứ ai quả của mình.”
Cây liễu nói: “Tôi không bao giờ giao du với người lạ.”
Và cả ba cây thu hẹp cành lá của chúng lại, gần sát vào thân cây của chúng.
Sáng hôm sau, tất cả những chiếc lá xanh sáng bóng của ba cây đó nằm trên mặt đất. Một cơn Gió Bấc lạnh lẽo đã thổi đến vào đêm qua, và mọi chiếc lá cơn Gió Bấc chạm vào đều rụng khỏi cành cây.
Gió Bấc hỏi một cách bỡn cợt: “Tôi có thể chạm vào mọi chiếc lá trong rừng không?”
Vua băng giá nói: “Không được. Những cây đã tử tế với chú chim nhỏ bị gãy cánh có thể giữ lại lá của chúng.”
Đó là lý do tại sao lá của cây vân sam, cây thông và cây bách xù vẫn mãi xanh.
Thánh vịnh 92 viết:
“Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt,
lớn mạnh như hương bá Li băng
được trồng nơi nhà Chúa,
mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta;
già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả,
tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn”
(Tv 92: 13-15).
Tin Mừng theo thánh Mátthêu chương 25 kể rằng: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han. Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu? Đức Vua sẽ đáp lại rằng: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 34-40).
Thánh Augustinô cũng đã mô tả: “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân” (Tự thú – Confessions).
Phêrô Phạm Văn Trung
Dựa theo Florence Holbrook, (https://www.fisheaters.com/)