Nhảy đến nội dung

Chiến đấu với cám dỗ

    CHIẾN ĐẤU VỚI CÁM DỖ (P.1)

KHÁI QUÁT VỀ CÁM DỖ

 

Theo thánh Tôma: "nghiệp vụ của ma quỷ là cám dỗ"[1]. Tuy thế người thêm ngay, không phải tất cả những cám dỗ đều phát xuất từ ma quỷ. Một số cám dỗ là hậu quả của dục vọng nơi chúng ta, như thánh Giacôbê nói: "Mỗi người có bị cám dỗ là do dục vọng của mình lôi cuốn" (Gc 1,14). Thực ra, nhiều cám dỗ phát xuất bởi ma quỷ. Thánh Phêrô so sánh ma quỷ với sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé (x. 1Pr 5,8).

Thánh Giacôbê dạy rằng: Thiên Chúa không bao giờ thử thách ai bằng cách xúi giục họ làm điều xấu (Gc 1,13). Khi nói về việc Thiên Chúa thử thách, Thánh Kinh dùng từ ngữ ấy để chỉ sự trắc nghiệm con người. Thiên Chúa để kẻ thù thiêng liêng cám dỗ ta với mục đích giúp ta lập công nhiều hơn. Như thánh Phaolô nói: "Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách Người cũng sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng" (1Cr 10-13).

Khi chế ngự được một cơn cám dỗ nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta sẽ có được rất nhiều lợi ích. Chiến thắng cám dỗ là làm nhục cho Satan, khiến cho vinh quang của Chúa chiếu sáng hơn, thanh tẩy tâm hồn ta, làm cho ta khiêm nhường, sám hối và tin tưởng vào ơn phù trợ của Thiên Chúa. Nó nhắc ta luôn thận trọng, cảnh giác và tỉnh thức, không tin vào mình, chờ đón mọi sự nơi Thiên Chúa, chế ngự những sở thích cá nhân. Nó thức tỉnh chúng ta cầu nguyện, giúp chúng ta lớn lên trong kinh nhgiệm, làm cho ta thận trọng và cảnh giác trong trận chiến chống lại kẻ thù. Thánh Giacôbê đã nói rất chính xác: "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người" (Gc 1,12). Nhưng để đạt được những lợi ích này cần biết làm thế nào để chiến thắng nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa. Muốn chiến thắng, chúng ta hãy xem xét ba nguồn gốc của các cơn cám dỗ, đó là: ma quỷ, thế gian và xác thịt.[2]

I. MA QUỶ.

1. Chiến thuật của ma quỷ qua trình thuật “Trái Cấm”.

Có lẽ không có trang Kinh Thánh nào mô tả cách rõ ràng chiến thuật của ma quỷ khi cám dỗ như trình thuật cám dỗ bà Evà, cuộc cám dỗ này đã gây hậu quả tai hại cho toàn thể nhân loại. Chúng ta hãy khảo sát trình thuật này và từ đó rút ra một số kết luận quan trọng.

Con rắn nói với người đàn bà: "Có phải thực sự Thiên Chúa bảo bà không được ăn quả của bất cứ trái cây nào trong vườn không?" (St 3,1). Cho đến lúc đó, ma quỷ chưa cám dỗ người đàn bà nhưng cuộc đối thoại đã hoàn toàn nằm trong phạm vi vấn đề mà nó có sẵn trong trí. Ngày nay, nó vẫn luôn luôn dùng chiến thuật đó. Đối những người hướng chiều về những thú vui nhục dục, hoặc nghi ngờ chống lại đức tin, thì ma quỷ chỉ khêu gợi bằng những lời nói xa xôi và không cần xúi giục họ làm điều xấu.

Nếu ý thức được sự nguy hiểm thì linh hồn sẽ không dừng lại trong cơn cám dỗ, nhưng sẽ hướng ý nghĩ và trí tưởng tượng tới những vấn đề khác. Khi ấy, cám dỗ gặp trở ngại và linh hồn chiến thắng dễ dàng. nhưng nếu linh hồn thiếu khôn ngoan mà đối thoại với cơn cám dỗ, thì sẽ bị sa vào bẫy.

Đây là lỗi của bà Evà, bà trả lời con rắn: "Chúng tôi được phép ăn quả trong vườn", nhưng Thiên Chúa đã nói: " Các ngươi được phép ăn quả cây trong vườn, còn quả cây ở giữa vườn, các ngươi không được đụng đến kẻo các ngươi phải chết" (St 3,2-3).

Linh hồn ý thức rằng Thiên Chúa nghiêm khắc ngăn cấm linh hồn thực hiện hành động đó, khơi dậy ước muốn đó, hoặc nuôi dưỡng tư tưởng đó. Linh hồn không muốn bất tuân lệnh Thiên Chúa, nhưng lại mất thời giờ gợi lại những bổn phận luân lý. Linh hồn có thể huỷ diệt cám dỗ ngay lúc ban đầu, không cần phải lo lắng, cân nhắc lý do tại sao phải làm như vậy.

Linh hồn đã nhường bước cho kẻ thù và bây giờ kẻ thù tập trung sức mạnh tấn công trực tiếp: "Nhưng con rắn nói với người đàn bà: 'Bà sẽ không chết, vì Thiên Chúa biết khi nào bà ăn nó thì mắt bà sẽ mở ra, và bà sẽ giống như Thiên Chúa, biết lành biết dữ “ (St 3,4-5).

Ma quỷ bày ra một tương lai đầy hấp dẫn. Hắn sẽ không nói với ta rằng, ta sẽ giống Thiên Chúa, nhưng hắn bảo ta sẽ được hạnh phúc nếu buông thả mình vào tội lỗi. Tên cám dỗ có thể thêm: "Trong bất cứ trường hợp nào, Thiên Chúa đầy lòng từ bi sẵn sàng tha thứ cho bạn. Hãy nếm thử trái cấm lần nữa đi. Bạn có nhớ kinh nghiệm trong quá khứ của bạn không? Lúc đó, bạn thú vị dường nào, và rồi bạn đã từ bỏ tội lỗi do lòng thống hối tức khắc cách dễ dàng như thế nào?".

Linh hồn vẫn có thời giờ rút lui vì ý muốn chưa ưng thuận, nhưng nếu không chấm dứt cuộc đối thoại, linh hồn sẽ có nguy cơ sa ngã. Sức mạnh dần dần suy yếu và tội được bày ra ngày càng hấp dẫn.

"Người đàn bà đã nhìn thấy trái ăn ngon, nhìn sướng mắt, và đáng thèm để được tinh khôn. Linh hồn bắt đầu dao động và bị xáo trộn mạnh. Nó không muốn xúc phạm đến Chúa, nhưng cám dỗ hấp dẫn đến nỗi, sau đó xảy ra một cuộc chiến đấu đôi khi diễn ra trong thời gian dài. Nếu linh hồn hết sức cố gắng và nhờ ảnh hưởng của ơn hiện sủng, quyết định trung thành với nhiệm vụ mình thì sẽ chiến thắng, nhưng thường một linh hồn bị dao động đến mức đó thì sẽ bước tới liều lĩnh phạm tội.

Vì thế bà đã hái lấy quả ăn, và cũng đã trao cho ông chồng ở cạnh bà và ông đã ăn (x. St 3,6). Linh hồn sa chước cám dỗ. Nó đã phạm tội và thường do gương mù hay do sự đồng loã, đã làm cho người khác phạm tội.

Khi vừa phạm tội, linh hồn ý thức ngay được sự lừa dối tai hại "và mắt cả hai đã mở ra và họ biết là họ trần truồng. Họ đã khâu lá và làm khố cho mình" (St 3,7). Bấy giờ, linh hồn ý thức được rằng mình đã mất tất cả. Nó thấy mình hoàn toàn trần trụi trước Thiên Chúa, mất ơn thánh sủng, mất hết các nhân đức thiên phú, không có ơn Chúa Thánh Thần, không có nơi ở cho Chúa Ba Ngôi. Nó đánh mất tất cả công trạng đã lập được trong suốt cuộc đời. Những gì còn lại là dối trá, đắng cay và tiếng cười chế nhạo của tên cám dỗ.

Ngay lúc đó, linh hồn nghe thấy tiếng nói khủng khiếp của lương tâm quở trách vì tội nó đã phạm: "Họ nghe thấy tiếng chân Chúa đi tản bộ trong vườn với gió hiu hiu thổi chiều hôm và họ đi núp mình khuất mặt Giavê Thiên Chúa giữa những cây trong vườn. Giavê Thiên Chúa gọi người đàn ông và phán với ông: "Ngươi ở đâu?" (St 3,8-9). câu hỏi không lời đáp này cũng là câu hỏi mà lương tâm tội nhân đặt ra. Điều duy nhất tội nhân có thể làm là quỳ gối xin Chúa thứ tha vì sự bất trung của mình và học từ kinh nghiệm đáng buồn này, để trong tương lai biết cách thế chống lại tên cám dỗ ngay từ giây phút đầu. Nhờ đó mới dễ dàng chiến thắng và được bảo đảm sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa.[3]

2. Những việc phải làm trước khi, đang khi và sau khi bị cám dỗ.

2.1. Trước khi bị cám dỗ.

2.1.1. Tỉnh thức.

Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu xem linh hồn phải làm gì trước và sau khi bị cám dỗ, Chúa đã đưa ra cho chúng ta một chiến thuật căn bản để ngăn ngừa cám dỗ khi Người bảo các môn đệ: "tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ" (Mt 26,41). Thức tỉnh và cầu nguyện cần thiết ngay cả trước khi cám dỗ xuất hiện.

Sự thức tỉnh cần thiết bởi vì ma quỷ không bao giờ từ bỏ chiếm đoạt linh hồn. Nếu đôi khi xem ra nó để chúng ta được bình an, là chỉ để trở lại tấn công lúc chúng ta ít ngờ tới. Chúng ta phải nhận thức trong thời gian được yên hàn là trận chiến sẽ lại tái diễn và có thể với cường độ mạnh hơn trước. Vì thế, chúng ta phải tỉnh thức kẻo bị đánh bất ngờ. Để được điều đó, chúng ta phải tránh dịp tội, lường trước những cuộc đột kích bất ngờ, thực hành khổ chế, xét mình riêng, thường xuyên nhắc lại quyết định không bao giờ phạm tội và tránh ở nhàn rỗi.[4]

2.1.2. Cầu nguyện.

Nhưng cảnh giác thôi chưa đủ, để sống trong tình trạng ơn sủng và chiến thắng cám dỗ cần phải có ơn trợ giúp hữu hiệu của Chúa, các ơn này chỉ có thể nhận được nhờ cầu nguyện. Sự cảnh giác thận trọng nhất và những cố gắng nghiêm chỉnh nhất sẽ hoàn toàn vô hiệu nếu không có sự trợ giúp của ơn thánh. Trái lại, nếu có ơn Chúa chắc chắn sẽ chiến thắng. Thiên Chúa đã hứa với chúng ta rằng: Người sẽ ban cho chúng ta ơn thánh, nếu chúng ta cầu xin với đủ điều kiện cần thiết. Điều này chứng tỏ lời cầu nguyện sốt sắng quan trọng như thế nào. Chúa Kitô dạy chúng ta xin cùng Chúa Cha: "xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ".Chúng ta cũng phải cầu khẩn Mẹ Maria, Đấng đã đạp đầu con rắn dưới gót chân trinh khiết của người. Và Thiên Thần bản mệnh của ta có nhiệm vụ chính là bảo vệ chúng ta chống lại những trận đột kích của ma quỷ, hãy năng chạy đến với Người.[5]

3. Phải làm gì trong khi bị cám dỗ: kháng cự trực tiếp và kháng cụ gián tiếp.

Trong khi cám dỗ, thái độ của linh hồn có thể được tóm tắt trong một từ quan trọng: kháng cự. Khi bị cám dỗ linh hồn giữ thế thụ động chưa đủ mà cần tích cực kháng cự. Sự kháng cự này có thể trực tiếp hay gián tiếp. Kháng cự trực tiếp và đương đầu với chính cơn cám dỗ và chế ngự nó bằng cách làm ngược lại nhưng gì nó đưa ra. Chẳng hạn, nói tốt về một người khi bị cám dỗ chỉ trích họ, bố thí cách quảng đại khi tính ích kỷ xúi ta từ chối, kéo dài giờ cầu nguyện khi ma quỷ xúi giục rút ngắn hay bỏ cầu nguyện. Nên kháng cự trực tiếp để chống lại bất kỳ cơn cám dỗ nào trừ những gì chống lại đức tin hay đức khiết tịnh như sẽ thấy sau.

Kháng cự gián tiếp là không tấn công cám dỗ, nhưng rút lui bằng cách nghĩ về vấn đề hoàn toàn khác. Đây là cách kháng cự được dùng trong những cám dỗ chống lại đức tin hay đức khiết tịnh vì, trong những trường hợp này, một cuộc tấn công trực tiếp sẽ rất có thể làm tăng cường độ của chính cám dỗ. Điều tốt nhất trong những trường hợp này là rèn luyện tinh thần mau lẹ nhưng bình tĩnh, để lôi cuốn các cơ năng nội tại của chúng ta, nhất là trí nhớ và trí tưởng tượng xa khỏi đối tượng của cám dỗ. Cũng hữu ích nếu có những cách giải trí hay hoạt động dễ lôi cuốn sự chú ý của ta trong lúc đó.

Đôi khi cám dỗ không biến mất ngay, và ma quỷ có thể tấn công trở lại cách ngoan cố hơn, nhưng ta đừng mất can đảm. Sự khăng khăng cố chấp của ma quỷ là một trong những chứng cớ rõ ràng nhất là linh hồn đã không ngã gục trước cám dỗ. Linh hồn cần chống lại, nhưng luôn luôn phải có sự thanh thản và bình an nội tâm. Linh hồn không suy yếu chút nào, trái lại sẽ gặt hái được những sinh lực mới. Sau cùng, khi ma quỷ biết mình đã thua, nó sẽ để cho linh hồn bình an, nhất là khi nó thấy không thể làm xáo trộn sự bình an nội tâm của linh hồn. Sự mất bình tĩnh này, đôi khi là điều duy nhất ma quỷ muốn khi khơi dậy cơn cám dỗ.[6]

2.3. Sau khi bị cám dỗ.

2.3.1. Nếu chắc chắn đã thắng cơn cám dỗ: hãy tạ ơn Chúa.

Bày tỏ những điều này cho vị linh hướng, hay cha giải tội cũng là điều hữu ích, nhất là những cám dỗ dai dẳng hoặc lặp đi lặp lại. Thiên Chúa thường ban thưởng cho cử chỉ khiêm nhường và đơn sơ này bằng sự trợ giúp mới và mãnh liệt. Những bậc thầy về đời sống thiêng liêng dạy: "Tỏ bày cám dỗ là đã thắng nó một nửa".

Nếu linh hồn chắc chắn mình đã chiến thắng, hãy nhớ đó là nhờ ơn Chúa. Do đó, phải dâng lời tạ ơn và cầu xin ơn trợ giúp siêu nhiên cho những lần khác. Có thể nói ngắn gọn và đơn giản như trong lời cầu nguyện tắt sau đây: "Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, xin tiếp tục nâng đỡ con trong mọi dịp nguy hiểm và xin thương xót con".[7]

2.3.2. Nếu sa ngã: đừng ngã lòng.

Nếu linh hồn đã sa ngã và không nghi ngờ về điều đó, thì đừng ngã lòng. Phải nhớ đến lòng thương xót vô cùng của Chúa và bài học của người con hoang đàng, rồi với lòng khiêm nhường và thống hối, hãy ném mình vào vòng tay Cha trên trời, xin Người tha thứ và quyết tâm nhờ sự trợ giúp của người sẽ không bao giờ phạm tội nữa. Nếu sa ngã trầm trọng, linh hồn không được thỏa mãn với hành động đơn giản là ăn năn tội cách trọn, nhưng phải đến với bí tích hoà giải và dùng kinh nghiệm phạm tội đáng buồn này để nỗ lực cảnh giác hơn và tăng cường lòng sốt mến Chúa để không tái phạm nữa.[8]

2.3.3. Nếu nghi ngờ: nên đợi khi bình tâm rồi mới xét lại.

Nếu linh hồn vẫn nghi ngờ không biết đã ưng thuận chưa thì đừng tỉ mỉ xét mình một cách lo âu, vì điều này có thể khơi lại cơn cám dỗ và còn làm tăng nguy cơ sa ngã. Đôi khi tốt hơn là hãy để qua đi một thời gian, cho đến khi linh hồn được thư thái hơn rồi hãy xét lương tâm cẩn thận để biết đã phạm tội chưa. Trong bất cứ trường hợp nào, tốt hơn nên ăn năn tội cách trọn và bày tỏ cho vị giải tội vào lúc thuận tiện những gì đã xảy ra, thú nhận lỗi lầm của mình như có trước mặt Chúa.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh của những người rước lễ hằng ngày thì phải làm gì ? Họ có được tiếp tục rước lễ cho đến ngày xưng tội không, ngay cả khi họ vẫn hoài nghi không biết đã chiều theo cám dỗ hay chưa?

Không thể có câu trả lời chung áp dụng cho mọi linh hồn và cho mọi trường hợp. Chẳng hạn, nếu linh hồn có thói quen tránh phạm tội hay nếu linh hồn có khuynh hướng bối rối, người đó nên tiếp tục rước lễ, đừng để ý đến những hoài nghi, và hãy ăn năn cách trọn về mọi tội đã phạm. Trái lại, nếu đó là tình trạng của linh hồn có thói quen phạm tội trọng, hay có lương tâm lỏng lẻo thiếu thận trọng, thì có thể đoán chừng rằng linh hồn đã chiều theo cám dỗ. Lúc đó, người ấy không được rước lễ nếu chưa xưng tội.[9] (còn tiếp)

Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

HỘI THỪA SAI VIỆT NAM

*************************************************

CHIẾN ĐẤU VỚI CÁM DỖ (P.2)

II. THẾ GIAN.

Khi được bàn tay Đấng Tạo hoá dựng nên, thế gian và những gì trong đó đều tốt lành. Ở mỗi giai đoạn của sáu thời kỳ tạo dựng được ghi lại trong sách Sáng Thế, chúng ta được biết Thiên Chúa nhìn xem những gì Người tạo dựng và thấy nó tốt đẹp. Bởi vì, thế gian không phải là trở lực cho sự nên thánh và ơn cứu độ. Tất cả tuỳ thuộc vào cách chúng ta phản ứng với những gì thuộc về thế gian, và cách chúng ta sử dụng chúng thế nào, chúng sẽ thành tốt hay xấu. Nhiều Kitô hữu sống giữa trần gian, tham gia rất nhiều vào những việc đời, nhưng đã trở nên những vị đại thánh. Thế gian chỉ trở thành kẻ thù của người Kitô hữu khi chúng ta bị những sự thuộc về thế gian trói buộc đến nỗi không thể tiến bước trong tình yêu và phụng sự Thiên Chúa. Trong những trường hợp này, có thể nói được được rằng, thế gian trở nên nguồn cám dỗ mạnh mẽ và là kẻ thù đáng gờm của đời sống thiêng liêng.

Khi nói về thế gian như kẻ thù của người Kitô hữu và chướng ngại cho việc nên thánh, chúng ta muốn nói đến tinh thần thế tục được biểu thị nơi những người nô lệ cho thụ tạo. Toàn thể các thành phố hay các quốc gia có thể bị nhiễm tinh thần thế tục, chỉ sống vì khoái lạc và hưởng thụ do tạo vật đem lại. Môi trường này đem lại một chướng ngại lớn cho người tín hữu muốn thực sự tiến tới trong thánh thiện nhờ tích cực thực hành nhân đức. [1]

1. Tinh thần thế gian thường được biểu lộ bằng 4 cách chính:

1.1 Sự lừa dối.

Cách thứ nhất là lừa dối, nhất là những châm ngôn giả dối đối lập trực tiếp với những giáo huấn của Đức Kitô. Thế gian đề cao khoái lạc, an nhàn, giàu có, danh vọng, bạo lực và quyền thế. Nó khuyên những người theo nó hưởng thụ cuộc đời khi có thể, tận dụng những gì thế gian dâng hiến, tìm sự an toàn và thoải mái tối đa cho thân xác. Sự thẩm định sai lầm này đưa đến kết quả là: những tên trộm được coi là tài giỏi và lão luyện về kinh doanh, những người chủ trương bất khả tri về Thiên Chúa hay những kẻ vô thần thì giữ vững lập trường của mình; những người không chấp nhận quyền bính và luân lý khách quan thì được coi là vô định về tự do cá nhân; những người buông thả về luân lý được coi là thạo đời và trưởng thành [2]

1.2. Nhạo báng những người sống lương thiện.

Biểu thị thứ hai của tinh thần thế tục được thấy trong việc nhạo báng và khủng bố những người cố gắng sống lương thiện và đúng đắn. Những người ham mê khoái lạc bạo miệng tuyên bố mình tự do, không bị luật luân lý ràng buộc và sống như mình thích. Họ chế nhạo bất cứ quyền bính hay luật pháp nào hướng dẫn con người sống tự chủ và tuân phục. Chính họ không muốn giữ luật, đặc biệt họ còn khinh chê những người phấn đấu liêm chính để sống một đời sống tốt.[3]

1.3. Những người sống buông thả theo dục vọng.

Biểu thị thứ ba của tinh thần thế tục được thấy trong những thú vui và những trò giải trí của những người không kìm hãm được những ham muốn thấp hèn. Thái độ buông thả trong vấn đề tính dục, sử dụng ma tuý, ăn uống say sưa thì được coi như một sự từng trải trong xã hội. Phim ảnh, báo chí và những phương tiện giải trí khác không chấp nhận giới hạn nào hết ngoại trừ sức mạnh của luật pháp, hoặc sự phẫn nộ của quần chúng. Cái quái dị trở thành bình thường trong đời sống của những người này.[4]

1.4. Dịp tội và gương xấu.

Dấu hiệu thứ tư của tinh thần thế tục là dịp tội và gương xấu mà người Kitô hữu đạo đức luôn phải đương đầu. Đây không chỉ đơn thuần là "gương mù" do đời sống sa đoạ, nhưng tệ hơn nữa, "gương mù" gây ra bởi những người vì niềm tin Kitô giáo hay do địa vị trong xã hội lẽ ra phải nêu gương nhân đức. Thánh Gioan có lý để than phiền rằng: "Cả thế giới ở dưới sự dữ" (1Ga 5,19), Và chính Chúa Giêsu cảnh cáo: "Khốn cho người gây ra gương xấu" (Mt 18,7).

Phương thuốc hiệu nghiệm nhất chống lại ảnh hưởng của thế gian và những người thuộc về thế gian là "đào vi thượng sách", nhưng vì phần lớn các Kitô hữu phải sống trong thế gian và vẫn buộc theo đuổi sự hoàn thiện Kitô giáo, nên họ cần phải cố gắng đạt được tâm tình của Chúa Kitô, Đấng cũng sống giữa thế gian nhưng đã đi ngược lại tinh thần thế tục.[5]

2. Những phương thuốc chống lại ảnh hưởng của thế gian.

2.1 Tránh dịp tội.

"Ai yêu sự nguy hiểm sẽ chết trong sự nguy hiểm". Người Kitô hữu phải giữ mình khỏi bị cám dỗ về những của cải trần gian, những thú vui trần tục hay những quyến luyến thụ tạo. Những dịp tội cho người này không tất nhiên là dịp tội cho người khác, vì thế, thật khó mà đưa ra những quy tắc chung trong vấn đề này.

Tuy thế, có một vài trường hợp độc hại đến nỗi gây nguy hiểm cho bất cứ Kitô hữu nào. Việc mỗi người phải làm là nhờ kinh nghiệm để biết đâu là những yếu đuối của mình và rồi dùng những biện pháp cần thiết như hy sinh và kiềm chế. Khi hồ nghi, người Kitô hữu lương thiện nên theo óc phán đoán thực tế của mình để xem xét vấn đề nói tới đó có nguy hiểm cho một tín hữu đạo đức trung bình hay không. Nếu có, thì họ cũng phải tránh. Một phương thức đơn giản khác là tự hỏi mình: "Chúa Giêsu sẽ làm gì trong hoàn cảnh này?". Cũng nên nhớ lại lời khuyên của thánh Phaolô: "không phải mọi cái đúng luật đều là khôn ngoan cho mọi người".[6]

2.2 Làm cho đức tin sống động

Thánh Gioan nói: "Chiến thắng của chúng ta đối với thế gian: đó là lòng tin của chúng ta" (1Ga 5,4). Đức tin là một sự chấp nhận có ý thức đối với mầu nhiệm và giáo điều nào đó. Khi đức tin được hoàn hảo, nó cống hiến cho ta một quan điểm hoặc một lối phê phán sự vật theo cách thức siêu nhiên. Có thể nói nó giúp ta nhìn sự vật với cái nhìn Thiên Chúa. Một đức tin mạnh mẽ giúp người Kitô hữu nhìn Thiên Chúa trong mọi sự và vượt qua những nguy hiểm mà không bị tổn hại, vì người ấy có thể vượt lên trên những gì đối với người khác là những cám dỗ. Một đức tin mạnh mẽ sẽ làm cho người Kitô hữu có khả năng chống lại những lời chế nhạo và giễu cợt của trần gian. Nhiều tác phẩm nghệ thuật diễn lại cảnh các thánh tử đạo bị những kẻ ngược đãi bao quanh với nụ cười chế nhạo hay những cái nhìn khinh bỉ, nhưng vị thánh không bị dao động và vẫn bình thản giữa cuộc tấn công và những đau khổ, vì nhờ ánh sáng đức tin - con mắt linh hồn của các ngài có thể nhìn thấu cõi vĩnh hằng và tập trung vào những sự siêu phàm.[7]

2.3 Suy niệm về sự phù hoa thế gian

Thế gian qua đi rất nhanh và cuộc đời còn qua nhanh hơn. Không có gì bền vững cố định trong sự xét đoán và tình bạn hữu thế gian. Những ai hôm nay được hoan hô thì ngày mai họ lại bị đả đảo. Sự dữ tăng triển vì nó được thưởng ngay trong trần gian này. Người Kitô hữu nhận thức được họ không có thành đô vĩnh cửu ở trần gian, nhưng họ là những lữ khách tiến về quê hương vĩnh cửu, họ biết chỉ mình Thiên Chúa không thay đổi, chỉ có sự công chính và chân lý Người tồn tại muôn đời. Vì thế chỉ có những ai thi hành ý Chúa, mới được sống đời đời (1Ga 2,17).[8]

2.4 Không lưu ý đến những gì thế gian nghĩ tưởng.

Bận tâm về "những gì người ta sẽ nói" là một thái độ không xứng đáng đối với người Kitô hữu. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng Người sẽ chối bỏ trước mặt Cha trên trời những ai chối bỏ Người trước mặt người đời (Mt 10,33). Do đó thật cần thiết cho người Kitô hữu biết giữ vững lập trường và theo sát giáo huấn của Đức Kitô: "Ai không đi với Tôi là chống lại Tôi" (Mt 12,30). Thánh Phaolô cảnh cáo ai chỉ lo làm đẹp lòng người ta sẽ không phải là môn đệ Đức Kitô (Gl 1,10).

Ai muốn tiến tới trên con đường thánh thiện phải hoàn toàn không quan tâm đến những gì thế gian nói hay nghĩ tưởng. Điều duy nhất phải quan tâm là làm theo ý Thiên Chúa với bất cứ giá nào, tốt hơn hết là phải nhất quyết ngay từ đầu, để tìm biết chỗ đứng của mình ở đâu. Chúng ta đã được Chúa Giêsu khuyến cáo rằng thế gian sẽ ghét bỏ và bách hại chúng ta (x. Ga 15,18-20). Nhưng nếu thế gian thấy ta đứng vững trong quyết tâm theo Chúa Kitô và luật Người ban, thì sau cùng, nó sẽ để chúng ta bình an và coi như thua trận. Cách tốt nhất để chiến thắng thế gian là không chùn bước nhưng đứng vững trong việc từ bỏ những sự phù hoa hư ảo và những châm ngôn lừa dối của thế gian.[9] (còn tiếp)

Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

HỘI THỪA SAI VIỆT NAM


Tác giả: