Cho và nhận - Chờ đợi trong tỉnh thức
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Huệ Minh
31/8 Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
1 Cr 1:26-31; Tv 33:12-13,18-19,20-21; Mt 25:14-30
CHO VÀ NHẬN
Nếu như có ai đó nói rằng Chúa không biết làm kinh tế (qua dụ ngôn người chủ vườn nho Mt 20,1-16 chẳng hạn), thì qua dụ ngôn này, Chúa trả lời về cách làm của Ngài: Ngài giao cho chúng ta việc làm ăn kinh tế đó. Thiên Chúa không coi con người như những cỗ máy, dù “thông minh” như robot, hay như những người con trẻ dại. Trái lại, Ngài coi con người là những người trưởng thành đầy tinh thần trách nhiệm biết cộng tác với Ngài để sinh lợi cho Nước Chúa dựa vào số vốn liếng ban đầu Ngài đã ban cho thế giới này nói chung, và cho mỗi người nói riêng.
Thế giới này, vũ trụ này, tất cả những gì bạn có, kể cả chính bạn đều là những nén bạc Chúa trao. Ý thức mình là những người con được Thiên Chúa yêu thương tín nhiệm như thế, bạn hãy sinh lợi cho Nước Trời từ những nén bạc của bạn trong việc phụng sự Thiên Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân.
Thiên Chúa cho ta nhiều hơn những gì ta xin. Ngài cho một cách quảng đại, không xẻn so tính toán. Và Chúa cũng dạy ta hãy cho đi như vậy. Dụ ngôn ông chủ và những nén bạc một lần nữa minh chứng cho lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Trước khi có việc đi xa, ông chủ gọi các đầy tớ đến và trao cho họ những nén bạc. Người năm nén, người hai nén, người một nén. Với số vốn ban đầu, mỗi người đều có cách riêng làm cho nén bạc đó sinh lời. Thế nhưng trong số họ, có người không biết sinh lời đã đem chôn nén bạc xuống đất và còn phiền trách ông chủ hà khắc. Ông chủ phán xử bằng cách “ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”. Mới nghe qua câu chuyện, ta sẽ cho rằng ông chủ này thật bất công, nhưng có lẽ đó mới là ông chủ nghiêm minh và công bình.
Có một chàng trai nọ trồng mấy chậu hoa ở ban công trong khu chung cư. Sau một thời gian, những chậu hoa buông nhành xống tầng lầu bên dưới. Lúc đầu, chàng trai định kéo chúng lên rồi buộc chặt lại. Nhưng sau đó anh cảm thấy làm như thế là quá ích kỷ nên thôi. Thế là chậu hoa của anh nhanh chóng tạo thành chiếc rèm buông xuống lầu dưới trông rất đẹp mắt.
Thời gian trôi qua và rồi mùa xuân đến, chàng trai hết sức ngạc nhiên thấy có một dây nho bò lên ban công nhà mình. Anh nhoài người nhìn xuống thì thấy có một cô gái xinh đẹp đang ngẩng lên mỉm cười với anh. Thì ra cô gái ở lầu dưới cảm kích trước món quà thiên nhiên của anh nên đã trồng một dây nho và cho nó vươn lên trên như một sự đền đáp. Thế rồi họ làm quen với nhau, khi giàn nho cho mùa trái ngọt thứ hai cũng là lúc chàng trai và cô gái đón nhận tình yêu ngọt ngào của nhau.
Cho và nhận là quy luật trong cuộc sống. Sống ở đời, người ta “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Nhưng con người tự nhiên thường thích nhận nhiều hơn là cho đi, không ai chịu cho không để bị thiệt thòi mất mát.
Hàng ngày chúng ta nhận lãnh từ thiên nhiên vũ trụ, từ cuộc sống nhiều hơn những gì chúng ta cho đi. Mặt trời cho ta ánh nắng ban mai ấm áp, bầu trời cho ta làn gió mát. Cỏ cây hoa lá đem đến cho ta sự tươi mới. Thời tiết tuần hoàn, vũ trụ nhịp nhàng chyển dịch đó chẳng phải là món quà vô giá mà ta nhận lãnh hàng ngày sao. Cha mẹ, gia đình, bạn hữu cho ta mối tương giao đằm thắm gần gũi. Mỗi phút giây ta sống trên đời đều gửi đến cho ta một lời nhắn nhủ thiết thân. Mỗi sớm mai thức dậy, ta có biết cám ơn cuộc đời cho ta có thêm một ngày sống để yêu thương không? Với ý nghĩa đó, hóa ra chúng ta là người rất giàu có, rất nhiều cái để cho, nhiều điều để sẻ chia với tha nhân.
Trong sách Công vụ tông đồ, thánh Phaolô viết “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). “Cho” với một xác quyết rằng chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều ân sủng từ Thiên Chúa. Những ân sủng ấy dành để phục vụ mọi người chứ không phải để ích kỷ cho riêng mình. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Cho như thế không làm chúng ta nghèo nàn mất mát nhưng càng được giàu sang, được lớn lên trong tương giao với người khác. Cho và nhận đều mang tính tuần hoàn. Điều ta cho sẽ không mất đi nhưng trở lại với những dạng thức khác mới mẻ hơn, vì rằng “trong cái mất luôn có cái được”. Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh của sự nghèo khó nhưng lại rất giàu có. Gia tài của Ngài là Thiên Chúa, bạn hữu của Ngài là thiên nhiên vũ trụ, tinh tú trăng sao...Ngài đã nên thánh bằng cuộc sống nghèo nhưng vẫn tự do bát ngát, nên thánh với niềm xác tín rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Giống như các tôi tớ trong dụ ngôn, chúng ta, cùng với những gì chúng ta có, là thọ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta không có gì thuộc về chúng ta; các khả năng của chúng ta từ Ngài mà đến. Tuy nhiên, không phải mọi người đã nhận được như nhau; mức độ các ân ban của Thiên Chúa cho từng người thì khác nhau, và đó là quyền của Ngài. Các nén bạc đây có thể là các đức tính, các khả năng phải phát triển. Nhưng điều tác giả dụ ngôn nhấn mạnh là sự tin tưởng nơi ông chủ, và sự tha thiết, quảng đại hy sinh hầu chu toàn ý muốn của chủ.
Như thế, cái chúng ta cho không chỉ là của cải vật chất mà là chính con người chúng ta. Chúng ta có thể trao cho nhau những điều rất đơn giản, sự chăm sóc yêu thương, một lời nói động viên, một cái nhìn thông cảm hay một lời cám ơn, xin lỗi...
Chúng ta chỉ có một cách đạt tới cùng đích của đời sống chúng ta, đó là ra tay phục vụ Thiên Chúa, sử dụng theo ý Ngài tất cả những gì đã được ban tặng và ký thác cho chúng ta. Chúng ta không thể sử dụng theo ý muốn của mình và phung phí đời sống và thì giờ, các khả năng và phương thế, các công việc của chúng ta. Thiên Chúa đã ký thác tất cả các thứ đó cho chúng ta, và chúng ta phải trả lẽ với Ngài về tất cả. Không phải trong sợ hãi Thiên Chúa, nhưng trong sự tin tưởng vào Ngài, chúng ta mới có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
**************
30/8 Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
1 Cr 1:17-25; Tv 33:1-2,4-5,10,11; Mt 25:1-13
CHỜ ĐỢI TRONG TỈNH THỨC
Ðời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó. Ðợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc quí chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.
Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ, nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để cháy sáng.
Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn cháy sáng. Ðèn cháy sáng là dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.
Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi Kitô hữu phải tích cực sống đức tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được; mỗi Kitô hữu cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.
Có lẽ trong chúng ta, không ai trải qua cuộc sống này mà không một lần chờ đợi. Người ta vẫn thường nói rằng “chờ đợi là hạnh phúc”. Nhưng cũng có người bảo chờ đợi chỉ mang lại khổ đau. Một ngày sống có rất nhiều lần chúng ta phải chờ đợi: chờ đợi một ai đó, chờ đợi một chuyến đi, chờ đợi một sự kiện.
Nếu ta để tâm quan sát xung quanh ta sẽ thấy mọi người, mọi vật đều có những khoảnh khắc chờ đợi: những chiếc xe đẩy hàng rong chờ đợi người mua; những người đi lại chờ đèn để băng qua đường; những điểm xe buýt lác đác vài người đợi chuyến xe kế tiếp. Chờ đợi có thể sẽ rất buồn và rất lâu, nhưng cũng có thể chờ đợi là niềm vui và hạnh phúc vì người ta đợi sẽ đến, việc ta mong sẽ thành. Ta cứ phải chờ, cứ phải đợi, chờ rất nhiều, đợi cũng rất lâu đơn giản vì ta không thể nào làm khác được.
Và để không bỏ lỡ điều ta đã cất công chờ đợi, để không tuột khỏi tầm tay điều mình mong ngóng, thì thái độ không thể thiếu nơi mỗi người là sự tỉnh thức.
Đối với người kitô hữu, mỗi ngày sống trên trần gian là một ngày chờ đợi để gặp Chúa. Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ yêu thương này, Thiên Chúa luôn kêu gọi con người hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì Chúa đến cách bất ngờ. Trong dụ ngôn mười cô trinh nữ này, Nước Thiên Chúa được ví như bữa tiệc cưới. Chúa Giêsu chính là chàng rể, các trinh nữ là mỗi người trong chúng ta, là toàn thể nhân loại này. Giờ Chúa đến là giờ ta giã từ cõi đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên sự bất ngờ của giờ chết.
Thiên Chúa dựng nên con người, Ngài mong cho con người được hạnh phúc, muốn cho hết thảy mọi người được cứu độ, và đó là ý của Ngài, như lời Chúa Giêsu đã nói:“Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6,40). Bởi thế, mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn đi đón chàng rể, cả mười cô dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều được tham dự tiệc cưới.
Việc Chúa đến tận nơi tìm ta, cho thấy con người được Chúa trân trọng, Chúa không ra lệnh hay triệu tập ta đến như một người lãnh đạo. Nhưng Chúa đích thân đến đón rước linh hồn ta, Chúa yêu thương ta biết bao!
Thế nhưng điều kiện để được vào dự tiệc cưới là phải có đèn sáng. Đèn ai không sáng sẽ bị loại ra ngoài.
Một ngọn đèn dầu cháy sáng được là nhờ sự liên tục cung cấp những giọt dầu, nếu những giọt dầu hết, thì đèn sẽ tắt. Dầu trong đèn của chúng ta không phải những gì quá lớn lao, đến nỗi ta không thể tích luỹ được, mà đó là: lòng tin, cậy, mến và những điều căn bản cần có trong cuộc sống hàng ngày nơi mỗi người: sự hy sinh, yêu thương nâng đỡ nhau, những suy nghĩ tốt về người khác... Đó còn là những giọt dầu tình yêu thương giữ cho đời sống đạo đức của chúng ta cháy sáng giống một ngọn lửa sống động. Những người đèn sáng là những người yêu mến Chúa thiết tha nên chăm lo thực hành Lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể.
Còn những người đèn tắt, cũng muốn vào dự tiệc cưới, nhưng không chịu chuẩn bị. Họ tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, là kitô hữu nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Họ sống buông thả theo những đam mê, dục vọng. Dù biết là rồi một ngày không xa họ sẽ rời bỏ thế giới trần tục này, nhưng họ vẫn tìm lợi danh bằng mọi giá, những mưu mô, tính toán cho riêng mình. Đó là những người có đèn mà không có dầu; có đèn mà đèn không sáng; có đạo mà không giữ đạo; biết luật Chúa nhưng không thực hành. Chúa Giêsu đã trích dẫn sự kiện trong Kinh Thánh biến cố Đại Hồng Thủy để mời gọi mọi người hãy học bài học lịch sử đó như một kinh nghiệm sống để luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì không biết giờ nào và ngày nào sẽ là lúc tận cùng của cuộc sống cá nhân. Lúc tận cùng ấy huyền nhiệm và khó hiểu được diễn tả như việc có hai người đang làm ruộng, hay hai người đang xay bột, một người được để lại và người kia được đem đi. Hay cũng bất ngờ như người chủ đi xa trở về vào lúc những người giúp việc không ngờ.
Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với thánh ý Chúa.