Chúa Giê-su dạy chúng ta đồng hành
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- JM. Lam Thy ĐVD.
CHÚA GIÊ-SU DẠY CHÚNG TA ĐỒNG HÀNH
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vùa ban hành “Gợi ý Mục vụ năm 2019”, trong đó có đề ra chương trình mục vụ 12 tháng (từ tháng 12/2018 đến tháng 11/2019). Xin được chia sẻ bài 1 (tháng 12/2018): CHÚA GIÊ-SU DẠY CHÚNG TA ĐỒNG HÀNH:
1- Khái niệm Đồng hành: Theo từ nguyên “đồng hành” chỉ có nghĩa 2 hoặc nhiều người cùng sánh bước trên một lộ trình. Tự thân cuộc sống luôn đầy ắp những thách thức, chông gai, những biến động không ngừng, và vô vàn những khó khăn va chạm. Vì thế sẽ là một may mắn, một diễm phúc có được những người thầy, người bạn sẵn sàng đồng hành chia sẻ gánh nặng, trợ giúp tinh thần, vật chất. Chính nghĩa cử cao đẹp của sự đồng hành có khả năng gây hứng khởi, phát sinh động lực, gia tăng sáng tạo, năng động và giúp con người có đủ nghị lực vượt khó. Vì thế đồng hành là một trong những hình thức hỗ trợ đắc lực nhất giúp mỗi người có thể kiện toàn bản thân và hoàn thành cuộc sống.
Một trong những yếu tố quan trọng để trưởng thành nhân bản là mở rộng tâm hồn về phía tha nhân để quan tâm, nâng đỡ, hỗ trợ, khuyến khích, sẵn sàng đồng hành trên hành trình lý tưởng. Trong cuộc sống không phải lúc nào người ta cũng có thể tự mình làm được hết mọi việc. Sức mạnh của mỗi người còn nằm ở người thân, bạn bè, những người luôn quan tâm, lo lắng, sẵn lòng giúp đỡ, sẵn sàng đồng hành. Vì thế, bản thân mỗi người cũng cần ý thức và xây dựng chính mình, để có khả năng đồng hành với người khác, với cộng đoàn.
2- Đức Giê-su luôn đồng hành với chúng ta:
Khi nói Đức Giê-su dạy chúng ta đồng hành là có ý muốn nhắc đến vai trò của Thầy Chí Thánh là một nhà giáo dục vĩ đại. Nếu giáo dục chỉ là truyền thụ kiến thức thì nhà giáo dục chỉ cần có kiến thức chuyên môn là đủ, nhưng nếu hiểu giáo dục Ki-tô giáo là đào tạo con người toàn diện thì bản thân nhà giáo dục cũng chỉ có thể chu toàn bổn phận khi giáo dục người khác bằng cả con người của mình. Nói cách cụ thể là: một người muốn dạy người khác, thì chính mình phải có kinh nghiệm tối thiểu về điều mình giảng dạy, phải hoàn tất đoạn đường nào đó trong sự thể nghiệm những kiến thức truyền thụ bằng chính cuộc sống của mình. Như thế, giáo dục hoàn toàn khác với các loại hình truyền thông khác (khi người ta kể lại một câu chuyện lịch sử hoặc khi một sử gia tường thuật những biến cố đã qua). Trong những trường hợp đó, người ta kể lại những sự kiện mà không hề sống. Còn trong việc giảng dạy, điều thiết yếu là người giảng dạy phải có thể nghiệm (lời nói đi đôi với việc làm) và kinh nghiệm sống của bản thân.
Từ quan điểm giáo dục là đào tạo con người toàn diện, Thư Mục Vụ 2008 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kêu gọi các gia đình chu toàn nhiệm vụ giáo dục con cái không chỉ bằng những bài học lý thuyết mà còn bằng chính gương sáng và những thực hành cụ thể. Để giáo dục đức tin, cần xây dựng bầu khí cầu nguyện ngay trong gia đình, cụ thể là đọc kinh chung trong gia đình, vì “những thực hành đạo đức ấy sẽ theo các em suốt đời, kể cả khi các em rời xa gia đình để sống trong những môi trường khác” (Thư MV, số 14). Để giáo dục tình yêu thương, cần xây dựng bầu khí yêu thương ngay trong gia đình, nhờ đó “mọi thành viên trong gia đình đều cảm nhận sâu xa là mình được mọi người trong gia đình yêu thương và tình yêu của mình được mọi người đón nhận, đáp trả; đồng thời chính cha mẹ phải nêu gương trước” (Thư MV, số 15). Để giáo dục lương tâm, sẽ “thật là mâu thuẫn nếu trong nhà, cha mẹ dạy con cái thật thà mà ra khỏi gia đình, cha mẹ lại gian lận dối trá đối với những người chung quanh. Gương sáng của cha mẹ và những bậc cha anh đóng vai trò quan trọng để giáo dục lương tâm cho những thế hệ nối tiếp” (Thư MV, số 16).
Nhà giáo dục vĩ đại luôn dạy dỗ và thực hành đúng những gì đã dạy dỗ – Đấng thực sự đồng hành với chúng ta trên mỗi bước đường của cuộc đời và ơn gọi – là chính Chúa Giê-su Ki-tô. Vậy Chúa Giê-su đồng hành với chúng ta như thế nào? Và nơi nào Người đưa chúng ta đi tới? Toàn bộ đời sống công khai của Đức Ki-tô đã là một sự đồng hành với các môn đệ. Người đã ở với họ, trò chuyện với họ, cầu nguyện cho họ và với họ, sửa chữa lỗi lầm của họ, làm cho họ được thông phần vào sứ mệnh của mình, vào công cuộc cứu chuộc của Người. Và điều này làm cho các môn đệ càng có khả năng trở thành môn đệ của Chúa để đồng hành với những người khác. Ngay cả đám đông cũng đi theo Chúa Giê-su, tìm kiếm Người, lắng nghe Người, yêu mến Người, vì Chúa Giê-su luôn đồng hành với mỗi cá nhân, cũng như với đám đông. Và những cá nhân mà Người đồng hành, Người làm cho họ có khả năng đồng hành cùng với đám đông, vô số đàn ông và phụ nữ mà họ như là "những con chiên không người chăn dắt" (Mt 9, 36).
Đức Ki-tô đã sống và đồng hành với con người trên khắp nẻo đường đời. Trong vườn, Đức Ki-tô xuất hiện và đồng hành như một người làm vườn. Bên dân chài lưới, Người xuất hiện và đồng hành như một tay lưới chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi nước bước của đàn cá (Lc 5, 1-11). Trên đường Em-mau, Người xuất hiện như khách bộ hành. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi (Lc 24, 13-35). Người xuất hiện để chiếu soi niềm nghi ngờ tăm tối nơi tâm tư mỗi người. Cuộc "hành trình của sự đồng hành" quá tuyệt vời mà Đức Ki-tô đã dành cho tất cả chúng ta là cuộc hành trình với các môn đệ trên đường Em-mau mà chúng ta sẽ không bao giờ dừng lại việc suy niệm. Chúa Giê-su đã sống lại, những gì Người làm, những gì Người nói, đã trở nên toàn bộ chân lý tuyệt đối và trường tồn về sự Phục Sinh mà Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết vốn cản trở con người bước đi – với niềm tin và hy vọng – về với Đấng Cùng Đích của mình.
3- Hãy luôn đồng hành với Chúa và với anh em:
Theo trình thuật của Vatican.net, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô tiếp tục loạt bài suy tư về niềm hy vọng Ki-tô Giáo trong buổi tiếp kiến chung vào sáng Thứ Tư trong tuần Bát Nhật Phục Sinh (4/4/2018). Ngài đã chia sẻ về cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Chúa Giê-su trên đường Em-mau theo trình thuật Tin Mừng của Thánh sử Lu-ca (Lc 24, 13-35) như một hành trình hy vọng.
Đức Thánh Cha nhắn nhủ với mọi người rằng các Ki-tô hữu ngày nay cũng giống như hai môn đệ đó. Vì thế, chúng ta thường tự thấy mình “bước ra khỏi hạnh phúc” để rồi sau đó lại trải nghiệm nỗi buồn và thất vọng. ĐTC cho biết việc cùng đồng hành của Chúa Giê-su với hai môn đệ cho thấy một “liệu pháp hy vọng”, vốn “dần mở ra để chúng ta tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa”. Hy vọng là một cái giá phải trả không hề nhỏ và luôn luôn đi liền với những thất bại và đau khổ. Tuy nhiên, việc cùng đồng hành với các môn đệ một cách kín đáo, Chúa Giê-su có thể khơi dậy niềm hy vọng của họ.
ĐTC giải thích rằng chỉ khi các môn đệ chứng kiến Chúa Giê-su bẻ bánh mà Người đã tỏ cho họ biết rằng Người chính là Đấng Phục Sinh đã đồng hành và hiện diện giữa họ. Điều này “cho chúng ta thấy tầm quan trọng của Bí tích Thánh Thể, mà qua đó, cũng giống như bánh, Chúa Giê-su đã bẻ chính cuộc đời của Người cho chúng ta, đồng thời giúp chúng ta “bẻ” cuộc đời của mình ra và trao ban chúng cho những người khác”.
Giải thích việc các môn đệ trở lại Giê-ru-sa-lem sau khi họ gặp gỡ Đấng Phục Sinh để rồi lên đường rao giảng Tin Mừng thế nào, chúng ta cũng được sai đi để gặp gỡ những người khác, để lắng nghe những niềm vui cũng như những nỗi buồn của họ, để rồi trao ban cho họ những lời của sự sống và hy vọng, dựa trên tình yêu không bao giờ tàn lụi của Thiên Chúa. ĐTC nhấn mạnh: Mỗi người chúng ta đều có những khoảnh khắc khó khăn và đen tối trong cuộc đời, mỗi khi tồn tại “một bức tường cản lối phía trước” chúng ta. Nhưng Chúa Giê-su vẫn luôn hiện diện bên cạnh mỗi người chúng ta để trao ban cho chúng ta niềm hy vọng, sưởi ấm tâm hồn mỗi người và nói: Hãy can đảm tiến lên phía trước. Thầy vẫn luôn bên cạnh các con. Hãy tiến lên phía trước. “Và đây Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (M 18, 20).
Hai môn đệ trên đường Em-mau đã cất bước lên đường, đã gặp Chúa Giê-su, đã bước đi theo Người, đã lắng nghe Người, và có lẽ sau ba năm các ngài đã đặt tất cả hy vọng vào Người, nhưng giờ đây các ngài nhận thấy mình bước đi không có niềm hứng khởi, không có niềm tin, không có hy vọng. Và điều này cũng thường xảy ra như thế cho chính người mà ngày nay chúng ta đã được mời gọi để cùng đồng hành. Ngay anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn họ cũng thường nhận thấy nơi chính mình trong trạng thái chán nản, buồn rầu, và không biết mình đi đâu, và không biết mình muốn gì. Thậm chí điều này cũng thường xảy ra cho chính bản thân mỗi người chúng ta, chúng ta cảm thấy buồn rầu và nản lòng. Chính bởi điều này, chúng ta cần có Chúa Giê-su đến với chúng ta và bước đi cùng với chúng ta, đồng hành với chúng ta, như với các môn đệ trên đường Em-mau năm xưa (Lc 24, 15).
Kết luận:
Tóm lại, học hỏi lời dạy dỗ luôn đi kèm với thực hành của Chúa Giê-su, người Ki-tô hữu cần ý thức rằng dù ở hoàn cảnh hay địa vị nào, không những ta cầu nguyện để được Chúa đồng hành, đồng thời ta cũng cần đến sự trợ giúp đồng hành của anh chị em. Và dù ở vị trí nào, ta cũng luôn có khả năng trợ giúp và đồng hành với anh chị em mình, trong mọi hoàn cảnh và địa vị của họ. Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa, nhiều khi con chỉ lo sống cho công việc, chỉ nghĩ tới những chương trình và dự định phải thực hiện, chỉ tìm mọi cách để thăng tiến bản thân, mà quên đi những con người Chúa đặt bên cạnh con hằng ngày để mời gọi con biết sống cho họ, biết hỗ trợ chương trình và dự định của họ, biết giúp họ vươn lên trong nỗ lực thăng tiến bản thân, biết khuyến khích họ trong mọi sáng kiến để mưu cầu lợi ích chung, đặc biệt là khi họ gặp những khó khăn và trắc trở trong cuộc sống. Ấy cũng bởi vì khi con không biết sống cho họ thì con cũng không hề biết sống cho Chúa.
Xin cho con ý thức rằng Tình Yêu là điều duy nhất mà con phải sống cho người khác, những điều còn lại trong cuộc đời chỉ là phụ thuộc. Trước tiên, nếu con không sống tình tương thân tương ái với những người bên cạnh, thì dù con có làm nên bao điều lớn lao cao trọng cũng chỉ là lo thỏa mãn tham vọng của mình thôi, chẳng có nghĩa lý gì, mà lại còn tạo thêm sự cách biệt và trống rỗng cho cuộc sống làm người. Chúa đã sống trọn tình cho con, thì xin giúp con cũng sống hết tình cho anh chị em mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.