Chuỗi Thiêng - Chuyên Cưu Mang
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Trầm Thiên Thu
CHUỖI THIÊNG
Ngày Tháng Noi Theo Gương Đức Mẹ
Việt Nhân Tín Nguyện Chuỗi Mân Côi
Sách “Những Ơn Lạ Mẹ Ban” có ghi lại câu chuyện này:
Hồi 19 tuổi, nhà văn Ozanam đến Paris với một tâm hồn không hẳn là vô tín ngưỡng, nhưng đang bị lung lay mạnh, có thể nói là khủng hoảng trầm trọng.
Một hôm Ozanam vào nhà thờ Đức Bà để xem tranh ảnh và công trình kiến trúc, bỗng Ozanam thấy gần cung thánh có một ông lão đang quỳ cầu nguyện, Ozanam tưởng là ông ta chỉ là một thường dân. Chàng đến gần và nhận ra đó là Ampère đại nhân, một nhà bác học danh tiếng đương thời. Tự nhiên Ozanam quỳ xuống, ngượng nghịu thầm thĩ cầu nguyện với Đấng mà chàng đã bỏ lâu nay. Lúc đó, tay bác học Ampère đang lần Chuỗi Mân Côi, mắt nhắm lại và rất kính cẩn.
Lúc sau, nhà bác học ra về, Ozanam đến gần và có vẻ rụt rè. Thấy vậy, bác học Ampère hỏi:
– Tôi có thể giúp anh việc gì không, hay anh muốn giải một bài toán?
Ozanam nói:
– Thưa không, con là sinh viên văn khoa, rất dở môn toán.
– Vậy anh bạn cần điều gì khác?
– Con muốn xin giáo sư giúp ý kiến về vấn đề đức tin.
Bác học Ampère cười:
– Đức tin là môn tôi rất dở, nhưng tôi sẽ gắng.
Về sau, ông Ozanam thường nói: “Chuỗi tràng hạt của nhà bác học Ampère đã ảnh hưởng mạnh tới cuộc đời tôi hơn tất cả những sách đạo và bài giảng.”
Bác học André-Marie Ampère sinh ngày 20-1-1775 tại Lyon (gần Poleymieux, Pháp), là nhà vật lý, là một trong những nhà phát minh ra điện từ trường và phát biểu thành định luật mang tên ông là định luật Ampère – đơn vị đo cường độ dòng điện. Ông nói một câu khiến chúng ta phải suy tư: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện.” Một bác học danh tiếng mà còn vậy thì chúng ta là gì mà không cầu nguyện, không lần Chuỗi Mân Côi?
Ông có tính tò mò và say mê tìm hiểu kiến thức từ khi còn rất nhỏ, người ta nói rằng ông đã đưa ra lời giải cho các tổng số học lớn bằng cách sử dụng các viên sỏi và mẩu bánh bích quy trước khi biết các con số. Cha ông dạy Latin cho ông, nhưng sau đó người cha không dạy Latin nữa vì nhận thấy con trai mình có khả năng và khuynh hướng nghiên cứu toán học. Về sau, Ampère học lại tiếng Latin để hiểu được các tác phẩm của Euler và Bernoulli. Cuối đời ông nói rằng ông biết nhiều nhất về toán học khi ông 18 tuổi, tuy vậy ông cũng đọc rất nhiều sách vở của các lĩnh vực khác như lịch sử, các ghi chép trong các chuyến du hành, thi ca, triết học và khoa tự nhiên.
Khi Lyon rơi vào tay quân đội Cách Mạng Pháp năm 1793, cha của Ampère (giữ chức thẩm phán trị an) đã chống lại một cách kiên quyết với cuộc cách mạng này, do đó đã bị bỏ tù và sau đó đã chết trên đoạn đầu đài. Sự kiện này gây ấn tượng sâu sắc đối với tâm hồn nhạy cảm của Ampère. Vài năm sau đó ông đã chìm trong sự lãnh cảm. Sau đó, sở thích của ông đã được đánh thức bởi một số bức thư về thực vật học khi chúng đến tay ông, và từ đó ông đã chuyển sang nghiên cứu thi ca cổ điển và sáng tác những bài thơ. Sau này, ông cho biết rằng có ba mốc lớn trong đời ông: Rước lễ lần đầu, đọc bài điếu văn cho Descartes của Antoine Léonard Thomas (nhà thơ Pháp), và sự kiện chiếm ngục Bastille.
Năm 1796, ông gặp cô Julie Carron và họ đã gắn bó với nhau. Quá trình gặp gỡ của hai người đã được ông ghi chép lại rất thật trong tạp chí Amorum. Năm 1799, họ cưới nhau. Khoảng năm 1796, Ampère dạy toán học, hóa học và ngoại ngữ tại Lyon. Năm 1801, ông chuyển tới Bourg làm giáo sư vật lý và hóa học, để lại người vợ ốm đau và con gái Jean Jacques Ampère ở Lyon. Vợ ông mất năm 1804, ông đã không bao giờ lấy lại được thăng bằng vì sự mất mát này. Cùng năm này, ông được bổ nhiệm làm giáo sư môn toán tại trường trung học Lyon.
Bài báo nhỏ của ông “Considérations Sur La Théorie Mathématique Du Jeu” (Suy nghĩ về Lý thuyết Toán học Vui) miêu tả những khả năng thắng bạc thay vì chơi may rủi, được xuất bản năm 1802, và đã được sự chú ý của Jean Baptiste Joseph Delambre – người giới thiệu ông làm giáo sư ở Lyon. Năm 1804, ông là trợ giảng tại trường Bách khoa Paris, ở đó ông được bầu là giáo sư toán năm 1809. Ông tiếp tục theo đuổi các nghiên cứu khoa học và các nghiên cứu đa ngành với một sự chuyên cần không suy giảm. Ông được kết nạp làm thành viên của Hàn lâm viện Pháp năm 1814.
Ông đã thiết lập mối quan hệ giữa điện trường và từ trường, và trong phát triển khoa học về điện từ trường, như ông gọi đó là điện động lực học, là lĩnh vực tên tuổi của Ampère đã được công nhận. Ngày 11-9-1820, ông được biết về phát minh của Hans Christian Orsted rằng kim nam châm chịu tác động của dòng điện. Ngày 18-9-1820, ông gửi một báo cáo tới Hàn lâm viện, báo cáo này chứa đựng những bình luận hoàn thiện hơn về hiện tượng này.
Toàn bộ lĩnh vực này đã được mở ra khi ông khảo sát và phát biểu công thức toán học, không chỉ để giải thích hiện tượng điện từ trường mà còn dự đoán nhiều sự kiện và hiện tượng mới. Ông đã viết bài “Essai Sur La Philosophie Des Sciences” (Trắc nghiệm về Triết lý Khoa học) rất có giá trị. Ngoài ra, ông đã viết một loạt các bài viết, trong đó có hai bài về tích phân của các phương trình vi phân.
Sự hào hiệp và tính cách đơn giản của ông được thể hiện trong cuốn Journal et Correspondance (Paris, 1872) do ông viết. Sau 45 năm, các nhà toán học đã phải công nhận ông. Sự cống hiến của ông rất lớn trong lĩnh vực khoa học, toán học, vật lý, hóa học, triết học. Trong toán học, ông nghiên cứu lý thuyết xác suất, giải tích và ứng dụng toán học vào vật lý.
Là nhà toán học hàng đầu, ông đã chỉ ra cách sử dụng ngành khoa học này. Ông coi toán học là một ngành của triết học, là cơ sở để đưa các phát minh trong vật lý trở thành các công thức định lượng. Vai trò của toán học là nâng cao tính chính xác, cũng như một phương tiện thực nghiệm của vật lý hiện đại.
Là một nhà tiên đoán vĩ đại, ông đã đưa ra các tư tưởng khoa học, từ đó đã mở ra các hướng nghiên cứu và ứng dụng khoa học rộng lớn. Tên tuổi của ông được xếp ngang hàng với các nhà bác học vĩ đại khác của nước Pháp và thế giới.
Công trình của Ampère về vật lý đạt được hàng loạt các thành tựu vĩ đại. Dựa vào phát hiện của Orsted năm 1820 về tác dụng của dòng điện lên kim nam châm, ông đã nghiên cứu bằng thực nghiệm để tìm ra lực điện từ và phát biểu thành định luật mang tên ông. Lực điện từ là một trong các lực cơ bản của tự nhiên, cơ sở của điện động lực học. Định luật Ampère cho phép xác định chiều và trị số của lực điện từ, là cơ sở chế tạo động cơ điện. Công thức Ampère và định luật Faraday là hai cơ sở chính để James Clerk Maxwell xây dựng nên lý thuyết trường điện từ.
Trong hóa học, ông đã tìm ra định luật sau này gọi là định luật Avogadro-Ampère. Ông còn là một nhà thực nghiệm tài ba, tự thiết kế và tự làm nhiều thiết bị phục vụ cho các thí nghiệm của mình. Các thiết bị này đã trở thành nền tảng cho các dụng cụ đo điện (như am-pe kế, vôn kế, điện trở kế,...). Ông còn là cha đẻ của các lý thuyết về phần tử vô hướng, của từ xuyến và của nam châm điện.
Ông qua đời ngày 10-6-1836 tại Marseille (Pháp) và được an táng tại nghĩa trang Montmartre (Paris, Pháp).
Một nhà khoa học danh tiếng lẫy lừng như bác học André-Marie Ampère mà có niềm tin mạnh mẽ và rất sùng kính Đức Mẹ, bằng chứng là ông say mê lần chuỗi Mân Côi. Điều đó cho chúng ta thấy rằng khoa học và đức tin không hề đối nghịch, một khi người ta càng hiểu rõ về khoa học thì càng thêm vững đức tin, càng đến gần Thiên Chúa và Đức Mẹ.
Đức tin vô cùng quan trọng. Tại sao? Vì nhờ ĐỨC TIN mà được cứu độ, (Rm 1:15) nhờ ĐỨC TIN mà nên công chính, (Rm 3:21; Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6; Gl 3:24; Dt 11:7) nhờ ĐỨC TIN mà được niềm vui và bình an, (Rm 15:13) nhờ ĐỨC TIN mà được chữa lành. (Mt 9:22; Mc 5:34; Lc 8:48; Lc 17:18; Lc 18:42)
Chuỗi Mân Côi là Bản Tóm Lược của Phúc Âm, lần chuỗi Mân Côi là một cách củng cố đức tin. Chính Đức Mẹ đã khuyến cáo tại Fátima: “Ăn Năn Đền Tội – Canh Tân Đời Sống – Lần Chuỗi Mân Côi.” Đó là “Mệnh Lệnh Fátima” được Đức Mẹ truyền qua ba trẻ nhỏ (Luxia, Giaxinta và Phanxicô), và đó cũng là bí quyết để chúng ta có thể cứu thế giới, cứu các linh hồn, và cứu chính mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.
TRẦM THIÊN THU
▶ Nhiệm Mầu Chuỗi Thiêng – https://youtu.be/4w8W7z7R6nM
************
CHUYỆN CƯU MANG
Kinh Thánh nhiều lần đề cập việc CƯU MANG. Động thái CƯU MANG có nghĩa đen và nghĩa bóng. Việc CƯU MANG thực sự là một mối phúc.
Theo nghĩa đen, đó là việc mang thai, cụ thể là người mẹ mang thai đứa con. Tục ngữ nói: “Nặng nề chín tháng CƯU MANG – Công sinh bằng vượt bể sang nước người.” Nhớ mẹ, không thể quên cha: “Ân cha nặng lắm ai ơi – Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng CƯU MANG.” Đó là điều cụ thể mà ai cũng biết rõ. Theo nghĩa bóng, CƯU MANG là giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn, bế tắc, đặc biệt là CƯU MANG trẻ em vô gia cư, mồ côi, bị bỏ rơi,...
Khi sứ thần truyền tin, Đức Maria ngạc nhiên và quan ngại, nhưng sứ thần trấn an: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlidabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang CƯU MANG một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.” (Lc 1:35-36)
Nghe vậy, Đức Maria khiêm nhường xin vâng. Sau đó, Đức Maria đã lập tức đi thăm bà Êlidabét. Hai chị em gặp nhau, người chị Êlidabét vui mừng ca ngợi người em Maria: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang CƯU MANG cũng được chúc phúc.” (Lc 1:42)
Khi nghe tin Đức Maria có thai, Thánh Giuse công chính không muốn tố cáo nên định tâm bỏ đi cách kín đáo. Nhưng sứ thần báo cho biết: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà CƯU MANG là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1:20-21) Thế là Thánh Giuse an tâm, làm như sứ thần Chúa dạy, rồi vui vẻ đón Đức Maria về nhà.
Trong thời gian Chúa Giêsu hoạt động sứ vụ công khai, có lần Ngài đang giảng dạy, giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng nói: “Phúc thay người mẹ đã CƯU MANG và cho Thầy bú mớm!” (Lc 11:27) Nhưng Ngài đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: ‘Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’.” (Lc 11:27) Chắc hẳn phụ nữ này là một người mẹ nên bà đã không thể im lặng. Bởi vì theo tự nhiên, người mẹ nào có đứa con giỏi giang, tài năng, nhân đức,... thì đúng là có phúc thật!
Chuyện “cưu mang” cũng có trong lĩnh vực tâm linh. Khi đề cập thử thách, Thánh Giacôbê nói: “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người. Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: ‘Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ,’ vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai. Nhưng mỗi người có bị cám dỗ là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt. Rồi một khi dục vọng đã CƯU MANG thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết.” (Gc 1:12-15) Cái gì chứ việc “cưu mang” như vậy thật đáng quan ngại, đáng lo sợ!
Trong thời gian đi qua hoang địa để tiến về đất hứa, ông Môsê nghe thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà kêu khóc tại cửa lều của mình. Còn Đức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm và thưa với Đức Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? Có phải con đã CƯU MANG tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: Hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng?” (Ds 11:11-12)
Khi đau khổ tột cùng, ông Gióp đã nguyền rủa chính mình: “Phải chi tinh tú ban mai thành tăm tối mịt mờ, và ban mai uổng công chờ ánh sáng, không hề thấy bình minh xuất hiện. Vì đêm ấy đã không đóng kín lòng dạ CƯU MANG tôi khiến mắt tôi khỏi nhìn thấy đau khổ.” (G 3:9-10) Và như một điều ước, ông đặt vấn đề: “Tại sao tôi đã không chết ngay trong lòng mẹ để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi, và lòng bà CƯU MANG tôi mãi mãi?” (Gr 20:17)
Cây nào, trái nấy. Nghĩ sao, làm vậy. Xấu – tốt có hệ lụy rạch ròi. Nguồn gốc xấu thì hệ quả xấu: “Đứa CƯU MANG gian ác, ắt sẽ sinh tai họa, bụng chúng chứa sẵn những điều gian.” (G 15:35) Ai cũng có thể nhận ra: “Kìa nó manh tâm làm điều bất chính, CƯU MANG điều ác hại, ắt phải sinh ra chuyện gian tà.” (Tv 7:15) Và có hệ lụy tất yếu: “Các ngươi đã CƯU MANG cỏ khô, ắt sẽ sinh rơm rạ. Hơi thở của Ta sẽ như lửa thiêu rụi các ngươi.” (Is 33:11) Nếu nguồn gốc tốt thì hệ quả tốt: “Hỡi con trai ta, đứa con lòng dạ ta đã CƯU MANG, đứa con ta đã cầu khẩn được.” (Cn 31:2)
Không phải Thiên Chúa ngắn tay không thể cứu, cũng chẳng phải Ngài nặng tai không nghe được, mà chính lỗi lầm của chúng ta đã phân cách chúng ta với Thiên Chúa, chính tội lỗi chúng ta đã khiến Ngài ẩn mặt: “Chẳng ai theo lẽ công minh mà kiện cáo, không ai xét xử theo đường chân thật. Người ta tin tưởng điều hư không và nói lời gian xảo, CƯU MANG chuyện xấu xa, đẻ ra điều gian ác.” (Is 59:4) Và rồi ngôn sứ thẳng thắn cảnh báo: “Épraim đã bị đánh nhừ đòn, gốc rễ của chúng bị héo khô, chúng không mang lại hoa trái gì được. Và giả như chúng có sinh sản, Ta cũng sẽ giết chết những đứa con yêu quý chúng đã CƯU MANG.” (Hs 9:16)
Trong cuốn “Strength for Service to God and Community,” tác giả Evan Hunsberger kể hai câu chuyện liên quan việc “cưu mang” thế này:
1. Hạ sĩ Duy Nguyen sinh trưởng tại Việt Nam. Ông đến Mỹ lúc 14 tuổi, bỏ lại thân nhân và quê hương. Lúc 19 tuổi, ông gia nhập Thủy Quân Lục Chiến. Ông nói: “Để tạo sự khác biệt, để chấp nhận thử thách là một quân nhân Thủy Quân Lục Chiến. Tôi cảm ơn cha mẹ đã nuôi tôi nên người như hôm nay. Cha tôi rất hãnh diện về tôi như thế này.”
Ông có dịp tham gia tổ chức Pacific Partnership tới Việt Nam với tư cách là người vận hành máy móc. Có 9 người được chọn trong số 200.000 lính Thủy Quân Lục Chiến, ông Duy là một trong 9 người đó. Ông nói: “Tôi có dịp trở về quê hương Việt Nam sau những ngày xa cách mà tôi rất khó lý giải. Tôi nhìn thấy trẻ em Việt Nam khiến tôi nhớ đến tôi hồi nhỏ. Như tấm gương phản chiếu quá khứ, nó nhắc tôi nhớ rằng tôi may mắn biết bao, và tôi quyết định trở thành người lính Thủy Quân Lục Chiến. Khi tôi làm nhiệm vụ này, giống như mọi thứ trong một chu kỳ viên mãn, và tôi nhận biết rằng có thể có những điều xảy ra vì một lý do nào đó.”
Cuộc sống không xoay vòng, mà nó hoàn tất chu kỳ viên mãn, và mọi thứ cũng vậy, nó thực sự xảy ra vì lý do nào đó. Hãy biết rằng bất cứ điều gì bạn đi qua, chính Thiên Chúa đã tác động và chăm lo cho bạn. Thiên Chúa ở đó và lắng nghe bạn. Đó là cách cưu mang mầu nhiệm của Thiên Chúa.
2. Cha mẹ của Noah Jones là ông bà Nathan và Sara trở thành cha mẹ nuôi. Noah thấy trong vùng Kentucky có xấp xỉ 600 đứa con nuôi cứ phải thay đổi gia đình mỗi năm. Khi một đứa trẻ phải di chuyển, chiếc “vali” tạm thời là một “túi rác.” Đa số trong số các trẻ em đó xuất hiện tại gia đình mới với những gì chúng có trong chiếc túi đó. Điều này khiến Noah cảm thấy phiền toái.
Noah nói: “Những túi của các trẻ em đó như nói với chúng rằng đồ đạc của chúng không bằng thứ rác rưởi.” Thế nên nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ và hai cô em gái, Noah thu gom tất cả. Anh quảng cáo trên báo địa phương và đài phát thanh. Trong vòng vài tháng, gia đình thu gom trung bình mỗi tuần khoảng 500 vali và túi xách. Noah bỏ vào các túi đó các đồ dùng cá nhân như xà bông và đồ chơi cho lũ trẻ.
Noah nói: “Tôi hy vọng rằng việc cho chúng các vật dụng như vậy sẽ làm cho chúng cảm thấy có sự kiểm soát giữa sự hỗn độn.” Mẹ của Noah nói: “Nếu một đứa trẻ 10 tuổi thấy được một vấn đề nào đó và có cách giải quyết, người lớn chúng ta có thể làm nhiều hơn không?”
Có nhiều vấn đề “nhỏ” trên thế giới mà chúng ta bỏ qua. Hãy tìm cách giải quyết vấn đề cụ thể nào đó. Điều đó có thể thay đổi thế giới – trong đó có phần của chúng ta. Đó là sống nhân bản, sống bác ái, là cách cưu mang tha nhân theo ý Chúa muốn. Thật vậy, Chúa Giêsu đã nói: “Người nghèo bên cạnh anh em lúc nào cũng có.” (Ga 12:8)
TRẦM THIÊN THU