Chút hương đời có giữ được trăm năm?
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Nguyễn Văn Thượng
CHÚT HƯƠNG ĐỜI CÓ GIỮ ĐƯỢC TRĂM NĂM?
Ảo hóa đưa anh vào
Thiên đường nào bất tử
Đây nỗi đau riêng tư
Chốt riêng lòng ta giữ
Trường ca khát vọng thiên thu…
***
Những thập kỷ gần đây, kiến thức về tất cả các lĩnh vực tạo nên sức mạnh phi thường cho nhân loại mà không một loài sinh thể nào có thể có được. Chính sự hiểu biết ấy làm cho nhân loại say ngất. Khoa học gia cố gắng tìm kiếm giải thích thấu đáo tất cả những ẩn nhiệm của thế giới. Thật sự hầu như vấn nạn nào cũng được khoa học giải quyết khá thấu đáo. Đáng mừng.
Về mầu nhiệm về sự tồn tại của con người, sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cá nhân và cộng đồng thì trí khôn con người không sao hiểu nổi và ngôn ngữ của con người không tài nào diễn đạt rốt ráo. Dù trí thức nắm bắt được nhiều quy luật nhưng bởi bản tính giới hạn, bất toàn, con người không thể đưa ra câu trả lời và sống cách xứng hợp đúng bản thể đã được Thiên Chúa tác thành và tác thánh. Hiến chế Mục Vụ Gaudium et Spes nhận định cho những vấn đề của thời đại, theo một cách thức mà hôm nay vẫn còn giá trị. Xã hội nhân sinh đã biến đổi sâu xa nhờ tiến bộ về kỹ thuật và khuynh hướng toàn cầu hoá, nhưng vẫn luôn tồn đọng giải pháp cho vấn nạn về bản chất và ý nghĩa hiện hữu của con người trong cuộc sống này và cả cuộc sống vĩnh hằng phía sau sự tàn lụi của xác thể sinh hóa.
Có một câu chuyện lý thú mà tôi được kể từ rất lâu, hôm nay tình cờ đọc lại trên một trang báo khoa học. Có ký giả viết rằng: Một nhà bác học Hoa Kỳ đã phân tích và đánh giá thân xác con người như sau: “Trong con người có một số nước đủ giặt một chiếc khăn bàn; máu đỏ chứa đựng chất sắt có thể làm được 7 cây đinh đóng móng ngựa. Tổng số vôi để cấu trúc bộ khung xương người trưởng thành đủ để quét được một bức tường nhỏ vài ba thước tây vuông. Tất cả tro than đốt từ xác người lớn chỉ đủ luyện thành ngòi cho 65 cây viết chì loại ngòi kích cỡ 0,9 mm được đưa vào sản xuất năm 1938. Bảng phân chất còn lượng định trọng lượng Phốt pho chỉ đủ làm một hôp diêm mấy chục que và tổng muối chắc được vài chục gờ ram. Sau khi phân chất, trọng lượng mang ra chợ bán chưa tới một đô la!”.
Đó là cấu trúc hóa học của xác thể. Bao nhiêu hóa chất đó không đủ nói lên bản thể một ngôi vị nhân sinh. Dù có hàng tấn di nữa, đáng giá tỷ đô chăng nữa cũng vô nghĩa với giá trị thật của một con người toàn vẹn. Vốn dĩ để là một người cần có đủ xác, có linh hồn. Nếu có xác mà không hồn sống thì đó là thây ma, nếu chỉ có hồn mà không xác thì chỉ là hồn ma. Đủ linh hồn linh hoạt trong một thân xác hoạt động mới làm nên bản thể nhân loại. Linh hồn đã làm cho xác thể hòa một mới có giá trị hơn mọi vật trong vũ trụ thiên nhiên. Chính linh hồn nói lên vận mệnh thường hằng của con người chứ không phải chỉ lệ thuộc vật chất bất toàn không thôi.
Nếu khoa học có mục đính đi tìm kiếm cấu trúc và quy luật của thực tại, triết học đi tìm kiếm ý nghĩa của thực tại thì vấn đề con người là một mối bận tâm đáng giá nhất. Tồn tại nhân sinh đã “mật lệnh” cho tất cả các ngành khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn dấn bước vào con đường suy tư và kiếm tìm câu trả lời. Kết quả của những suy tư mà họ mang lại là một hệ thống tri thức luận về hiện sinh, hiện thể và cấu trúc con người trải dài trong lịch sử để giải mã huyền nhiệm con người.
Triết gia nhiều câu hỏi như Socrate (470-399 B.C) cho rằng thân thể con người đến từ thế giới của vật chất, nhưng lý trí của nó thì đến từ Lý Trí Phổ Quát hay Tâm trí của thế giới. Đó có phải là giá trị của linh hồn trong ý thức của chủ thể suy tư và ước muốn không? Kiến thức, sự hiểu biết, khôn ngoan đích thực sẽ dẫn con người tiếp tục trên hành trình tìm kiếm chính mình.
Hàng triệu năm suy tư, vấn đề con người vẫn luôn luôn là một đề tài “còn dở dang” và có lúc như đi vào ngõ cụt. Trước Socrates, triết lý giới chỉ quan tâm đặc biệt đến vấn đề vũ trụ luận bao quát rộng lớn mà hầu như bỏ quên hiện thực con người. Socrates và các nhà triết học Ngụy Biện đã đặt vấn đề sự tồn vong của con người, khi đó triết học mới trở về quan tâm tới vấn đề con người. Triết gia Platon (428-348 B.C) quan tâm đến con người như là chủ thể tri thức có xác và hồn. Với Platon, con người vốn thuộc thiên giới luôn hướng về thiên giới, là những “thiên thần mắc đọa ở trần gian”. Platon quan niệm hữu thể con người là “bản chất thật” trong thế giới ý niệm và chỉ ở đó mới có thực chất con người hiện hữu. Với Platon, con người đến từ thượng giới, một thế giới thật và luôn hướng trở về đó. Còn Aristote thì định nghĩa “con người là con vật có lý trí”. Con người trước khi là hữu thể siêu linh thì chỉ là thành viên của vũ trụ nhưng đứng ở vị trí trung tâm. Hữu thể nhân loại của Aristote gắn với đất, còn con người của Platon thì hướng lên trời. Cả hai cùng quan điểm về cùng đích tối hậu của con người là vươn tới hạnh phúc.
Người ta có thể nói rằng, con người là một phần tinh túy nhất của vật chất, và như thế ý thức của con người chính là khả năng tự phản ánh của vật chất. Nếu theo quan niệm này, thì con người cũng vẫn chỉ là một đối tượng hoàn toàn chịu sự quyết định của quy luật vật lý chẳng có vận mệnh thiêng liêng nào cả. Con người chiếm vị trí cao trong vũ trụ nhờ “được vé hạng nhất” trong tiến hóa sinh vật mà thôi. Thế giới vật chất mà con người thuộc về chính là vận mệnh, một vận mệnh hoàn toàn vật chất. Liệu như vậy thì ta sống ở đời thi hành những điều tốt “tích đức tồn thiện” để làm gì để rồi cũng vong mạng như kẻ trộm cướp, dâm loạn? Nếu vật chất là định mệnh tất yếu của con người, sự tuyệt duyệt ẩn ngay trong những hơi thở yếu ớt của người già, người đau bệnh nan y thì tất cả hy sinh quên mình của các vĩ nhân, lòng quảng đại tha thứ và yêu thương nhân đạo đi về đâu? Hay là món trang trí cho “bề thế” sự nghiệp như những tập đoàn kinh tế làm từ thiện rầm rộ chỉ để quảng bá thương hiệu tinh vi? Và thấy không ước mơ thăng hoa tinh thần ấp ủ và thực hiện nơi các gia đình, và các giá trị tinh thần khác mà con người hằng trân trọng và tìm kiếm, tất cả chỉ là những thứ xa xỉ vô nghĩa tất cả. Cố gắng làm gì nhỉ khi chẳng có gì còn lại ngoài cái quy luật vô cảm của vật chất vẫn đang điên cuồng vận hành và trùm lấy nhân loại bằng bóng tối mênh mông thê lương?
Khoa học tiến bố có mặt đóng góp tiêu cực và cũng có thể là tích cực. Nếu tôn thờ chủ nghĩa thực dụng, lấy vật chất làm định mệnh, điều khiển khoa học và công nghệ để chi phối, quy định và bắt buộc giống như một mệnh lệnh cho ngôi vị thiêng liêng của con người thì cuộc sống không có gì hơn ngoài việc thu góp và hưởng thụ mọi thành tựu và phương tiện mà khoa học và xã hội đem lại để chết. Vô nghĩa quá. Nhận ra được sự chi phối của các thành tựu khoa học chỉ mang tác dụng phục vụ và trợ lực cho đời sống đầy tràn ý nghĩa và yêu thương mà thôi thì sẽ rất hạnh phúc hưởng thụ thành quả trong khi vẫn tiến tới trên hành trình tìm kiếm ánh sáng thiêng liêng của một miền đầy ánh sáng. Vật chất là cần thiết nhưng không phải tất yêu của ngôi vị và không thể chi phối hết ngôi vị nhân sinh bắt chúng gông lại trong thân xác hủ hoại bất tất vô thường này. Vất chất vốn dĩ như hương vị giúp cho nhân sinh thể hiện và thăng hoa nhân cách của mình. Tuy nhiên nhân cách và ý nghĩa cuộc sống của con người không thể chịu phụ thuộc bởi vật chất hết đâu.
Carl Sagan (1934-1996), nhà thiên văn học nổi tiếng Mỹ đã từng là giáo sư thiên văn học ở Đại học Harvard và Đại học Cornell ở Ithaca, New York không tin vào định mệnh tất hữu thường hằng của loài người, ông chế giễu ý niệm về cuộc sống vĩnh hằng và đạp đổ niềm hy vọng hằng sống và đã khẳng định:
“Nếu có bằng chứng tốt về cuộc sống ở kiếp sau được công bố, tôi sẽ là người sốt sắng trong việc xem xét vấn đề này; nhưng đó phải là những cứ liệu khoa học, không phải là chuyện huyền thoại ... Tôi nói, thà rằng sự thật cay nghiệt còn hơn sự tưởng tượng dùng để an ủi”... “Tôi cũng thích tin rằng sau khi tôi chết tôi sẽ sống lại, rằng một phần tư duy, tình cảm, ký ức của tôi sẽ tiếp tục tồn tại. Nhưng càng muốn tin vào điều đó, và mặc dù những truyền thống văn hóa lâu đời khắp thế giới khẳng định có kiếp sau, tôi càng không thấy có gì hơn rằng đó chỉ là điều suy nghĩ mong ước (a wishful thinking) mà thôi” (x. Carl Sagan, The Demon-Haunted World (1996). Với ông, khi nào cuộc sống ấy được “vật chất hóa” ông mới tin. Vì ông không thể “giải thoát” được mình ra khỏi những định luật vật chất nên muốn “đưa ông vào đời sống vĩnh cữu” chỉ còn cách Thiên Chúa hãy tự “vật chất hóa” mình và “hồng trần hóa” thiên giới vô ảnh, vô tượng vật lý thì ông tin ngay. Vậy hãy đến Las Vegas tìm “thiên đường” và đọc truyện Tần Thủy Hoàng.
Nhà bác học Albert Eintein (1879-1955) đã phê phán hạn chế của các quan điểm tôn giáo lấy sự mong muốn bất tử của cá nhân và sự hứa hẹn được ban thưởng ở kiếp sau làm động cơ đạo đức của cá nhân. Ông nói: “Tôi không tin vào sự bất tử của cá nhân. Tôi coi đạo đức chỉ liên quan đến con người mà thôi và không có một quyền lực siêu nhân nào ở đằng sau cả.” (x. Albert Einstein the Human Side, Helen Dukas and Banesh Hoffman, eds., Princeton University Press, 1981, p. 39). Ông này cũng không tin có Thiên Chúa và đem vật chất làm căn bản cho đạo đức chăng? Lại cũng muốn “cơ giới hóa, hiện đại hóa” Thiên Chúa thành một đối tượng thí nghiệm chăng? Không có quyền lực siêu nhân nào ở đằng sau động cơ đạo đức cá nhân thì những vị thánh của chúng ta, những vị Bồ tát của Phật giáo thực hành đạo đức vì cái gì nhỉ? Các ngài đâu phải nhà vật lý nè. Chết chưa.
Einstein đã vạch ra sự phi lý trong quan niệm về sự ban thưởng hay trừng phạt của Thượng đế, vì điều này mâu thuẫn với quan niệm của tôn giáo về tính toàn năng của Thượng đế. Sự ban thưởng, trừng phạt chỉ chứng tỏ sự bất lực. Hơn nữa, dùng sự ban thưởng và trừng phạt để kích thích hành vi đạo đức chỉ dẫn đến sự ích kỷ của con người. Einstein viết:
“Tôi không thể hình dung một vị Thượng đế lại đi ban thưởng hay trừng phạt những sản vật của chính sự sáng tạo của mình”. Cũng theo Einstein, “Hành vi đạo đức của một người phải dựa một cách có hiệu quả trên tình cảm, giáo dục, quan hệ và nhu cầu xã hội; không cần có một cơ sở tôn giáo nào. Con người sẽ thật là tồi tệ nếu anh ta phải kiềm chế vì sợ bị trừng phạt hoặc hy vọng ở sự ban thưởng sau khi chết.” (x. Out of My Later Years, Philosophical Library, New York, 1950. À, nếu vậy thì thứ đạo đức nào sẽ có sức chi phối khiến hàng trăm triệu tín hữu Hồi giáo sống nhiệm nhặt quấn kín người, tôn kính Kinh Qu’ran? Hay gần 2 tỷ dân Kitô giáo tôn trọng sự sống không dám phá thai? Và hàng tỷ người khác sợ “trời phạt” mà cố gắng ra sức tích đức, tích thiện? Vậy phải chăng vì không học vật lý tương đối, không biết gì đến khoa học Tây Phương mà Khổng Mạnh đề cao lễ giáo gia phong? Đạo đức dựa trên “tình cảm, giáo dục, quan hệ và nhu cầu xã hội” là thứ đạo đức “lợi dụng”, ai sẽ thích thực hành? Thực hay ảo chỉ có Thiên Chúa biết. Niềm tin Thiên Chúa đã thúc đẩy ¾ nhân loại sống theo luân thường, chỉ những ai tưởng khoa học ban cho mình “gậy toàn năng” tự phong cho mình là Thiên Chúa và không cần đến luân lý của lương tri do Thiên Chúa viết trong tâm hồn. Không sợ trời thì chẳng làm gì có ích cho nhân loại đầy đủ về vật chất và tâm linh.
Triết gia cận hiện đại Nietzsche (1844-1900) đã “phát lệnh trảm” Thiên Chúa khi tuyên bố “Chúa đã chết rồi” để đoạn tuyệt với mệnh lệnh luân lý của thế giới vĩnh hằng. Tưởng thế giới của Nietzsche chiến thắng. Thế nhưng chưa thấy Người chết, mà Nietzsche thì “bây giờ tan tác về đâu?” (x. Hoàng Cầm – Bên kia sông Đuống, NXB Văn hoá, 1983).
Định mệnh thiêng liêng về ngôi vị hằng sống làm tăng phẩm giá của con người mà không hề xúc phạm đến nhân vị ấy. Học thuyết nhân học Công giáo cho rằng phẩm giá con người hệ tại ở việc nó được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, có khả năng biết và mến Thiên Chúa, và nhất là được kêu gọi vào đời sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Tuy nhiên, đó phẩm giá ấy chỉ có thể được rạng rỡ dưới ánh sáng mạc khải. Khoa học, triết học và chính trị vô thần có thể cảm thấu được không khi “lớp vỏ vật chất” của họ quá chắc chắn đến nỗi “ân sủng đức tin” không thể có đủ sức mạnh của “thạch phá thiên” xuyên thấu? Khi đã phủ nhận Thiên Chúa thì mệnh đề “phẩm giá con người cao quý vì là hình ảnh Thiên Chúa, được gọi vào chia sẻ hạnh phúc với Chúa” là điều vô nghĩa. Nhưng không phải vì thế mà phẩm giá tâm linh của con người bị hạ nhục trước Thiên Chúa và những kẻ tin.
Thánh Công đồng Vaticanô II cũng lưu ý giới Công giáo rằng thời đại hậu “kỷ nguyên Ánh sáng” rất nhạy cảm tới vấn đề bảo vệ nhân phẩm, đặc biệt qua việc tranh đấu bảo vệ nhân quyền, nhân quyền có định mệnh tất yếu là Thiên Chúa. Cách tốt nhất để bảo vệ nhân quyền là sống xứng đáng với phẩm giá của mình, tái cấu trúc Thiên Chúa nơi mỗi ngôi vị nhân sinh. Trong tuyên ngôn về tự do tín ngưỡng số 2, Công đồng Vaticano II mô tả phẩm giá con người hệ tại chỗ nó có lý trí và ý chí tự do, có trách nhiệm bản thân. Nói cách khác, con người có khả năng điều khiển hành vi của mình theo sự hiểu biết, thâm tín của mình, chứ không thể bị lôi kéo bằng xiềng xích hay vũ lực. Con người mang lấy tự do, tự do ấy đưa con người tới với Thiên Chúa. Tiếc thay vật chất hóa ngôi vị đã xây bốn tường đá giam cầm vĩnh viễn nhân sinh trong tranh đấu máu đổ đầu rơi cũng chỉ vì miếng ăn, cái mặc. Hại thay.
Vĩnh hằng, trường cửu, qua những cuộc bể dâu phong trần, là niềm mơ ước của kiếp người cho cả kẻ khổ sầu lẫn người hạnh phúc. Người đau khổ mong thoát khỏi cảnh lầm than mà đến nơi cực lạc. Người hạnh phúc mong sao cho niềm vui và hạnh phúc mang lấy yếu tính đời đời hạnh phúc. Cuộc sống vĩnh hằng luôn là mong ước của loài người, định mệnh có thật của kiếp nhân sinh đương thế, hậu thế và vĩnh hằng thế.
Liệu khoa học sẽ dẫn con người bước tiếp theo trong hành trình tiến hóa của loài người chính là phát triển thành thành Cyborg - một loài sinh vật nửa người nửa máy, đưa bộ dữ liệu này vào một cơ thể android được nâng cấp thành một “loài nửa người nửa máy” để kéo dài ý thức và dục vọng thêm bằng chương trình “số hóa não bộ” và “cơ điện khí hóa” sinh thể? Vậy là chúng ta có thể tự chọn cho mình một cơ thể yêu thích và sống hạnh phúc sau khi cơ thể sinh học của chúng ta chết đi. Và điều thú vị là, quy luật tự nhiên sẽ không còn có thể chi phối loài người chúng ta nữa, thay vào đó, chúng ta sẽ hoàn toàn làm chủ cuộc sống của mình – sống vĩnh viễn không cần Thiên Chúa, không cần thiên đường nào cả.
Mối liên kết của ngôi vị với Thiên Chúa chính là kho tàng vô cùng quý giá chứ không phải thang độ năm tồn tại để “hưởng”, và là điều đó làm nên giá trị vô biên của con người. Không ai có thể vẽ biểu đồ cuộc sống cho ai được, hoặc thông tri cách chính xác điều gì thực cần thiết để quyết định trong hành trình trên đời. Chỉ biết, một con đường thênh thang với những nguyên tắc sống của người Kitô hữu, Thiên Chúa muốn đồng hành sẽ dẫn tới cùng đích vinh quang vĩnh hằng trong sự gắn bó sâu sắc và “đồng hình đồng dạng” với Chúa Kitô Giêsu. Hiện hữu vĩnh hằng của kiếp người với “yếu tính thiêng liêng” sẽ dẫn dắt và kiến trúc toàn bộ đời sống và ơn gọi Kitô hữu của mình.
Ai đó đã nói: nếu muốn biết thật sự ý nghĩa cuộc đời, hãy quỳ xuống và xin Chúa cho biết. hãy để hết lòng vào đó. Đó là điều tôi đã làm. Khi còn trẻ, tôi theo thuyết bất khả ngộ và tôi không tin vào sự sống đời đời. Sau này, những thất bại và tính tương đối của cuộc sống đã làm cho tôi xác tín vào Thiên Chúa. Tôi vẫn thường cầu nguyện như sau: ‘Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, hãy cho con ánh sáng dẫn đường, con không biết đâu là mục đích của con. Xin dẫn con từng bước, từng bước một tới sự vĩnh cữu của Chúa. Nếu Chúa có thật, xin nghe lời con cầu nguyện...’. Và mười năm sau, một linh mục đã dâng lời tạ ơn Chúa bằng hiến tế cuộc đời mình. Chúa đã trả lời. Chắc chắn, không thể nào nghi ngờ được.
“Các ngươi sẽ tìm Ta và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta” (x. Giêrêmia 29, 13).
***
Viết tại Nhà Thờ Thới Sơn
Ngày 27 tháng 10, năm 2016
Linh Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thượng
G.p Mỹ Tho