Nhảy đến nội dung

Con có một tình yêu: Mẹ Maria

 CON CÓ MỘT TÌNH YÊU: MẸ MARIA
Lm. JBT Phạm Quốc Hưng, CSsR.

   Người ta thường nói: “Giá trị của một người tùy thuộc đối tượng của tình yêu nơi người ấy.” Cuối tác phẩm thời danh Đường Hy Vọng của ngài, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã gói trọn tâm tình yêu mến sùng mộ Đức Mẹ trong một câu đáng nhớ: “Con có một tình yêu: Mẹ Maria” (# 988). Như vậy, ngài đã chọn Mẹ Maria, đối tượng của tình yêu nơi chính Chúa làm đối tượng của tình yêu cho chính mình, đúng như Chúa muốn và vì Chúa muốn. Và hệ quả của tình yêu ngài dành cho Mẹ là gì, nếu không phải là ngài đã được nên giống Chúa Giêsu, nên một với Chúa Kitô, nên một “Chúa Kitô khác”, nghĩa là nên thánh-là đạt được lý tưởng của đời sống đức tin Kitô giáo?


    Tin Tòa Thánh chính thức mở án phong thánh cho ngài vào ngày 16/09/2007 là một vinh dự và niềm vui lớn lao cho mọi tín hữu, đặc biệt là người Công Giáo Việt Nam. Hơn hết, đây phải là một nguồn hứng khởi tươi mát thúc đẩy mỗi người Công Giáo Việt Nam chúng ta canh tân đời sống đức tin và nỗ lực nên thánh.


    Nếu chúng ta hỏi “Muốn nên thánh con phải làm gì?” Ngài sẽ trả lời chúng ta một cách thật đơn sơ, ngắn gọn: “Muốn nên thánh, con hãy bắt chước trẻ thơ; nó không hiểu lý thuyết gì, nhưng nó nhìn mẹ nó, nó làm theo mẹ nó, nó tin mẹ nó biết tất cả, làm đúng tất cả. Nhìn Mẹ Maria, làm như mẹ Maria, con sẽ nên thánh” (Đường Hy Vọng # 918).


    Điều này đã được ngài chứng minh trong tác phẩm Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng, cuốn sách ngài soạn ra với những mẫu truyện nhằm minh hoạ các tư tưởng súc tích trong cuốn Đường Hy vọng. Trong phần viết về Đức Mẹ, ngài đã bỏ công sưu tầm và trình bày rất nhiều mẫu gương yêu mến Đức Mẹ của các thánh và những bậc danh nhân trong lịch sử Hội Thánh. Ngài đưa ra nhận xét độc đáo này: “Mỗi vị thánh đều có một nét đặc thù hoàn toàn khác biệt nhau, mỗi thánh mỗi thể mà! Nhưng nếu ta nhìn kỹ, ta sẽ thấy tất cả các ngài cùng có một điểm chung: Vị thánh nào cũng yêu mến Đức Mẹ”.

   Vậy Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê của chúng ta đã yêu mến Đức Mẹ như thế nào?
    Nơi cuộc đời của Đức Hồng Y Phanxicô, người ta nhận thấy tính cách xác thực của câu ngạn ngữ lâu đời trong Giáo Hội: “Đầu gối bà mẹ là trường huấn luyện các thánh”. Thật vậy, ngài đã kể về mẹ ngài, bà cố Êlisabeth Ngô Đình Thị Hiệp như sau: “Mẹ tôi đã đổ vào tim tôi lòng kính mến Đức Mẹ từ tuổi ấu thơ”. 


Lòng yêu mến Đức Mẹ nơi ngài còn được bồi dưỡng bởi gương sáng của bà nội ngài. Ngài viết: “Bà nội tôi, mỗi buổi tối, lúc gia đình đọc kinh xong rồi, bà còn lần thêm một tràng hạt. Tôi hỏi bà, bà đáp: mệ lần một chuỗi cầu cho các cha. Bà không biết đọc, không biết viết, nhưng chính những người bà, người mẹ như thế, đã vun trồng ơn thiên triệu trong lòng chúng tôi” (Xem Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận Qua Những Lời Tự Thuật của Đức Ông Phanxicô B. Trần Văn Khả tr.20-21).


    Kỷ niệm những buổi đọc kinh trong gia đình ngày thơ ấu đã giúp đào luyện ngài trở thành con người của cầu nguyện và một bậc thày dạy cầu nguyện. Ngài tâm sự: “Tôi rất ghi ơn sự huấn luyện ở chủng viện, những bài thánh ca đã ghi sâu vào lòng tôi. Đặc biệt là tôi thuộc hầu hết những bài bình ca trong kinh phụng vụ, chưa bao giờ tôi cảm thấy ý nghĩa sâu xa và xúc động như vậy. Cũng không quên được những kinh Việt ngữ, tiếng mẹ đẻ của tôi, mà cả nhà cùng cầu nguyện mỗi buổi tối trong nhà nguyện gia đình. Tôi hình dung được trước mắt ông bà, ba má và các em tôi, và tôi nghe giọng mỗi người cầu nguyện. Nhất là ba kinh Kính Mừng và kinh Hãy Nhớ mà mẹ tôi tập tôi đọc sớm tối lúc mới biết nói” (Đức Hồng Y… tr. 28).


    Chính nhờ hiểu biết sâu xa giá trị tuyệt vời kinh Mân Côi không những qua việc học hỏi từ giáo huấn và truyền thống của Hội Thánh nhưng còn bằng chính kinh nghiệm sống của mình, Đức Hồng Y đã để lại những lời dạy thật quý giá và đáng ghi nhớ sau về kinh Mân Côi trong sách Đường Hy Vọng:
    “Chuỗi Mân Côi là giây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ; âu yếm như Bêlem, khắc khoải như Ai-cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mừng lúc phục sinh, tông đồ bên thánh Gio-an. Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ và trong Mẹ.” (# 922).
    “Ai mến Mẹ thì yêu thích chuỗi Mân côi. Bởi vì chỉ có người yêu mới lặp đi lặp lại một chuyện, một lời mà không biết nhàm chán” (# 947).

   Trong tập hồi ký Cha Tôi trong Cuộc Đời của Tôi tập I, Cha Hiền nhận xét: “Tôi thấy ngài luôn cầm tràng chuỗi Mân côi trên tay. Vì ngài luôn xác tín hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa” (tr. 38). Ngài thường mời Cha Hiền cùng lần chuỗi chung với ngài. Sau khi bị mổ, lúc được Cha Hiền hỏi thăm, ngài đã trả lời: “Nếu không ngủ được thì Cha lần chuỗi cầu nguyện cho Giáo Hội, cho đất nước và đặc biệt cho các đẳng linh hồn” (Cha Tôi…Q. II tr. 157).
    Vì yêu Mẹ thiết tha, ngài đã có lòng yêu quý cách riêng các vị thánh có sự nổi bật về lòng yêu mến Đức Mẹ và nỗ lực noi gương yêu Mẹ của các ngài.


Đặc biệt, ngài muốn bắt chước Thánh Gioan Vianey để gọi Mẹ là “mối tình đầu của tôi”. Ngài chọn bút hiệu là Cuồng Tử để muốn noi gương yêu mến Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội cách say mê cuồng nhiệt của Thánh Maximilianô Kolbe, người được mệnh danh là “người con điên của Đức Mẹ”. Ngài còn viết một cuốn sách nhỏ mang tựa đề Sứ Điệp Cha Thánh Maximilianô Kolbe để quảng bá khoa thánh mẫu độc đáo của thánh nhân. Dường như ngài đã cố gắng sống trọn sứ điệp của thánh nhân mà ngài đã tóm gọn như sau: “Toàn hiến vô điều kiện, tuyệt đối, dứt khoát, hoàn toàn cho Mẹ Maria Vô Nhiễm để chinh phục tất cả các linh hồn” (Sứ Điệp Cha Thánh Maximilianô tr. 81). 


Vốn có lòng thảo mến vâng phục thiết tha dành cho Vị Đại Diện Chúa Kitô, Đức Hồng Y lại càng thêm lòng yêu mến ngưỡng mộ Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, Vị Giáo Hoàng đã chọn khẩu hiệu “Tất cả cho Mẹ” cho sứ mạng mục tử của mình. Ngài viết: “Đức Gioan-Phaolô II là một tâm hồn thánh mẫu. Nhìn lên huy hiệu của ngài, ta thấy trên nền xanh, chỉ có một Thánh giá và một chữ M (Maria) màu vàng núp ẩn dưới bóng thập tự, thực đơn sơ và giàu ý nghĩa! Khẩu hiệu của ngài càng vắn tắt, thâm thúy và bộc lộ rõ ràng hơn nữa tâm hồn Thánh Mẫu: totus tuus, một khẩu hiệu rất khó mà diễn tả hết mọi ý nghĩa: Tận hiến cho Mẹ, toàn thân thuộc về Mẹ, tất cả đều là của Mẹ… (Những Người Lữ Hành..tr. 500).


Được mẹ ngài truyền cho lòng yêu mến Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu như mẫu gương các nhân đức Kitô giáo từ thuở bé, ngài đã sống tinh thần thơ ấy trong tình yêu thiết tha dành cho Mẹ Maria trong mọi cảnh huống. Ngài đã đúc kết kinh nghiệm này trong Đường Hy Vọng như sau: 
“Phản ứng đầu tiên của trẻ thơ là gọi Mẹ ơi, Mẹ! khi lo sợ, khi lúng túng, khi đau buồn. Tiếng Mẹ là tất cả cho con trẻ. Con hãy năng gọi: Mẹ, Mẹ ơi! Con yêu mến Mẹ, Mẹ là tất cả của con. (# 921)
“Con thơ bắt chước mẹ tất cả, dù khó khăn, nguy hiểm, không phải vì có ý theo gương mẹ vì mẹ là thần tượng, là tất cả, nhưng vì yêu mẹ, tin mẹ. Xem Mẹ uống thuốc con uống theo, mẹ đi ở tù con vào theo. Mẹ Maria là tấm gương sáng vừa tầm con, con hãy mô phỏng gương Mẹ. Chúa Ba Ngôi không thể làm một tâm hồn thánh thiện hơn được” (# 925)
Chắc hẳn ngài không khỏi vui mừng khi lập lại lời này của Thánh Têrêsa Hài Đồng vì biết rằng điều mà Chị Thánh mơ ước đã được thực hiện nơi ngài: “Ôi, tôi mến Mẹ Maria lắm! Giả như tôi là linh mục, tôi sẽ rao giảng về Đức Mẹ dịu dàng lắm!”.


Năm 1957, khi còn là linh mục sinh viên ở Rôma, ngài đến thăm viếng linh địa  Lộ Đức lần đầu tiên. Khi suy niệm lời Đức Mẹ nói với Thánh Nữ Bernadette: “Mẹ không hứa cho con các niềm vui và an ủi trên trần gian này, nhưng các thử thách và khổ đau”, ngài cảm nhận đó cũng là những lời Mẹ muốn nhắn gửi chính ngài. Điều đó đã trở thành hiện thực sau biến cố 1975 (Cha Tôi…Q.II tr. 178). Nhưng ngài đã tìm được an ủi nơi tình Mẹ. Có lẽ vì thế mà ngài thường thích hát bài thánh ca “Lạy Mẹ xin an ủi chúng con luôn luôn” (Cha Tôi…Q. IV tr. 72).

Nếu Thánh Giá là món quà quý giá mà Mẹ Maria dành cho những người con yêu của Mẹ để giúp họ được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu-Con Mẹ, thì Mẹ Maria cũng đã ưu ái dành cho Đức Hồng Y món quà ấy khi để ngài bị nhà cầm quyền Cộng Sản bắt giam đúng vào Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời ngày 15 tháng 08 năm 1975. Hôm sau, ngày 16 tháng 08 năm 1975, khi bị giam ở nhà quản thúc Cây Vông, ngài đã đặt ra lời kinh “Cầu Nguyện Trong Tù Vì Chúa Kitô” trong đó có những lời sau:
“Con yêu đoàn chiên của con và sẵn sàng chịu tù đày, chịu chết vì họ.
“Họ không biết vị mục tử của họ đang bước đi vào giai đoạn cực độ ấy, con cảm thấy mình tự do hơn bao giờ hết.
“Con không có gì hết, dù một xu cũng không, trừ tràng chuỗi Mân Côi, và ý thức Chúa Giêsu, Mẹ Maria không bao giờ rời con.
“Lạy Chúa là Chúa của con, là tất cả mọi sự của con.
“Lạy Mẹ Maria, con xin dâng mình cho Mẹ, toàn thân con thuộc về Mẹ, mọi người thân yêu và mọi sự của con là của Mẹ” (Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê..tr.96-97).
Trong cảnh ngục tù, giữa những giây phút đau khổ ngút ngàn, ngài đã cho thấy tình yêu sâu thẳm và lòng phó thác cậy trông tuyệt vời dành cho Mẹ Maria với những tâm tình sau:
“Khi không thể cầu nguyện được, tôi thường cầu cứu Đức Mẹ: Mẹ ơi, Mẹ thấy con kiệt sức rồi, con không đọc được một lời kinh nào nữa, vậy con sẽ chỉ đọc một kinh Kính Mừng thôi với tất cả lòng mến của con. Con đặt tất cả mọi sự của con trong tay Mẹ và con sẽ lặp lại Kính Mừng Maria. Con xin Mẹ phân phát lời cầu này cho tất cả những ai cần nó trong Hội Thánh, trong giáo phận của con…
“Để đặt mình vào bầu khí cầu nguyện, tôi tim cách trở nên một kinh Kính Mừng sống động” (Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê…tr. 95).
 

Vào Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 08 tháng 12 năm 1978, trong cảnh lao tù ở tại Thanh Liệt, Đức Hồng Y đã sáng tác bài thơ “Mẹ Với Con” thật cảm động sau để diễn tả tương quan yêu thương giữa Đức Mẹ và ngài.
Đời con dâng hiến Mẹ của con
Giây phút đầu tiên đến Sàigòn
Cáo gian lắm điều con vì Mẹ
Vu vạ nhiều nỗi Mẹ với con
Sống chết lao tù con có Mẹ
Gian truân chẳng quản Mẹ bên con
Tăm tối đêm trường con theo Mẹ
Băng rừng vượt biển Mẹ dẫn con
Cô quạnh ê chề con kêu Mẹ
Hy vọng trào tràn Mẹ nghe con
Đau khổ xác hồn con nhìn Mẹ
Âm thầm tế lễ Mẹ dạy con
Muôn vàn thương mến con trao Mẹ
Ức triệu ân tình Mẹ thương con
Sứ mạng tương lai con dâng Mẹ
Khó khăn hiện tại Mẹ giúp con
Âu yếm đêm ngày con yêu Mẹ
Ngày về tin tưởng Mẹ đợi con (Cha Tôi.. Q. II tr. 42).

Đức Hồng Y còn cảm nhận sự can thiệp đầy yêu thương dịu ngọt của Mẹ Maria dành cho ngài trong cảnh ngục tù qua nhiều giai thoại như sau:
“Đức Mẹ còn xử dụng cả người cộng sản để nhắc tôi cầu nguyện. Ông Hải đã từng ở tù, nằm cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn của tôi. Trứơc ngày ông ra về, ông đã hứa với tôi: Nhà tôi ở Long Hưng chỉ cách La Vang 3 km, tôi sẽ đi La Vang cầu nguyện cho anh. Tôi tin lòng thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản mà đi cầu nguyện Đức Mẹ cho tôi! 
“Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi được một lá thư ông Hải, lạ lùng thật! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau: Anh Thuận thân mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Đức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi Chủ Nhật, nếu trời không mưa, lúc nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào trứơc đài Đức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập nhà thờ rồi. Tôi cầu nguyện thế này: Thưa Đức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi đã hứa sẽ đi cầu nguyện Đức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Đức Mẹ biết anh cần gì thì cho anh ấy.


“Tôi hết sức cảm động. Tôi đọc đi đọc lại và đặt thư xuống nhắm mắt lại: Lạy Mẹ, Mẹ đã dùng anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện: chắc Mẹ đã nhận lời anh ấy, con mới còn sống đây” (Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê..tr.83).
Nếu việc Đức Hồng Y bị bắt vào Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời năm 1975 như dấu chỉ tình yêu Đức Mẹ dành cho ngài được diễm phúc chia sẻ cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, thì việc ngài được thả tự do vào Lễ Đức Mẹ Dâng Mình vào Đền Thánh  ngày 21 tháng 11 năm 1988 có thể coi là dấu chỉ báo trước việc ngài sẽ được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của chính Chúa Kitô. Đức Hồng Y đã thuật lại sự kiện ấy như sau:


“Trong con đường đen tối của tù ngục, tôi đã cầu nguyện với Mẹ Maria với tất cả tấm lòng đơn sơ: Lạy Mẹ, nếu Mẹ thấy rằng sau này con không còn ích lợi gì cho Hội Thánh nữa, thì xin hãy ban cho con ơn được chết trong tù để dâng trọn đời con. Ngược lại, nếu con còn phục vụ Hội Thánh được, thì xin cho con ra khỏi tù vào một ngày lễ của Mẹ.
“Một hôm, khi đang chuẩn bị ăn trưa, thì tôi nghe tiếng điện thoại của trực tù reo vang. Có lẽ điện thoại này là cho tôi. Hôm nay là ngày 21 tháng 11, lễ Đức Mẹ Dâng Mình vào Đền Thánh. Quả thật, một lúc sau đó một người công an đến hỏi tôi: 
“-Ông ăn cơm chưa?
“-Chưa! Tôi đang nấu.
“-Sau cơm trưa, ông nhớ ăn mặc tử tế. Ông sẽ lên gặp lãnh đạo.
“Trưa hôm đó tôi đã gặp ông Bộ Trưởng Nội Vụ.
“-Ông có muốn trình bày ước mong gì không?
“-Thưa ông Bộ Trưởng, tôi muốn được tự do.
“-Khi nào?
“-Hôm nay.
“Bình thường thì không thể xin hôm nay được, bởi vì các vị lãnh đạo cần có thời giờ để thảo luận, để giải quyết các thủ tục. Nhưng tôi rất vững tin…
“Ông Bộ Trưởng nhìn tôi kinh ngạc. Tôi giải thích:
“Thưa Ông Bộ Trưởng, tôi đã bị tù quá lâu. Dưới ba triều đại giáo hoàng rồi: triều đại Đức Phaolô VI, Đức Gioan-Phaolô I và Đức Gioan-Phaolô II. Ngoài ra, tôi bị tù dưới thời bốn vị Tổng Thư Ký của Đảng Cộng Sản Liên Sô: ông Breznev, ông Andropov, ông Cernenski và  ông Gorbachov!
“Ông Bộ Trưởng bật cười và gật gù đồng ý:
“-Đúng thật, đúng thật!
“Rồi ông quay sang người thư kỳ nói:
“-Hãy làm những gì cần thiết để thỏa mãn nguyện vọng của ông ấy.
“Lòng tôi nhảy mừng: Mẹ Maria đã giải thoát tôi: Lạy Mẹ, con cảm ơn Mẹ! Con mừng lễ Mẹ!”


Và ngài đã thưa với Đức Mẹ: “Lạy Mẹ Maria chí thánh, con đã được thả tự do vào chính ngày Mẹ dâng mình trong đền thờ. Mẹ là người đã làm cho họ thả con ra. Mẹ đã làm cho con được tự do! Xin Mẹ chỉ bảo cho con điều con sẽ phải làm bây giờ”. Hôm ấy cũng chính là kỷ niệm thành hôn của cha mẹ ngài, và ngài thưa với Đức Mẹ: “Họ thả con ra rồi, trong chính ngày kỷ niệm lễ thành hôn của cha mẹ! Con sẽ báo cho cha mẹ sớm hết sức và xin cha mẹ coi đây như món quà cho cha mẹ trong ngày kỷ niệm này” (Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê..tr. 113-115).

Đúng như lời cầu nguyện của ngài với Đức Mẹ, Chúa đã muốn ngài được thả tự do để đem lại lợi ích cho Hội Thánh, không phải chỉ tại Giáo Hội tại Việt Nam nhưng còn cho Hội Thánh toàn cầu. Khi chính phủ Việt Nam không cho ngài trở về nước, ngài đã góp phần xây dựng Hội Thánh qua việc phục vụ tại Giáo Triều Rôma trong tính cách là Phó Chủ Tịch và sau đó là Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý Hoà Bình. Đặc biệt hơn cả là ngài được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II chọn để giảng tĩnh tâm cho giáo triều Rôma vào Mùa Chay Năm Thánh 2000 với chủ đề “Chứng Nhân Hy Vọng”.


Dù ở đâu hay trong địa vị hoặc hoàn cảnh nào, Đức Hồng Y vẫn luôn hướng về quê hương Việt Nam với tình mến sắt son. Ngài đã kết hợp tình yêu tổ quốc vào mối tình sâu thẳm nhất nơi tâm hồn ngài là tình yêu dành cho Mẹ Maria bằng cách cổ võ sứ điệp và lòng sùng kính Đức Mẹ La Vang. 


Vào ngày 22 tháng 08 năm 1998, tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội tại Washington, DC, nhân Đại Lễ kỷ niệm 200 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại La Vang, ngài đã chính thức cho ra mắt “Cộng Đoàn Đức Mẹ La Vang”, một hiệp hội bao gồm nhiều thành phần và bậc sống khác nhau nhưng cùng chung mục đích “dấn thân trong một nếp sống vừa chiêm niệm vừa hoạt động tông đồ trong lòng Giáo Hội”. Ngài cũng vạch ra một linh đạo Đức Mẹ La Vang dựa trên Đường Hy Vọng để giúp mọi tín hữu sống đức tin trưởng thành để canh tân và xây dựng xã hội trong thế kỷ 21. Linh đạo này gồm 10 điểm chính như sau:
1.    Bí quyết cầu nguyện
2.    Tinh thần ấu thơ
3.    Mầu nhiệm Thánh Giá
4.    Phó thác cho Mẹ
5.    Phục vụ người nghèo
6.    Xây dựng Hội Thánh
7.    Thánh hóa gia đình
8.    Đoàn kết hiệp nhất
9.    Loan báo Tin Mừng
10.    Chứng nhân Hy Vọng (Cha Tôi trong Cuộc Đời của Tôi của Đức Ông 
Phaolô Phan Văn Hiền Q. IV 109-111).

   Đến giờ lâm chung, lòng yêu mến Đức Mẹ đã trở thành lời đầu tiên trong ba lời nhắn nhủ trong chúc thư thiêng liêng của Đức Hồng Y. Chúc thư quý giá này đã được chính Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trân trọng nhắc lại trong bài giảng lễ an táng của ngài ngày 20 tháng 9 năm 2002: “Hãy yêu mến Đức Trinh Nữ Rất Thánh và hãy trông cậy vào Thánh Giuse, hãy trung thành với Giáo Hội, hãy đoàn kết và yêu thương mọi người” (Đức Hồng Y Phanxicô-Xaviê… tr.179).


    Tôi nhớ mãi lần đầu gặp gỡ Đức Hồng Y trong tuần tĩnh huấn dành cho cáclinh mục Việt Nam tại Florida năm 1996. Dịp ấy, tôi học được nơi ngài lòng cậy trông thẳm sâu vào quyền năng và tình thương của Đức Mẹ. Trong phần hội thảo, khi các linh mục bàn về những cách thức để góp phần đem lại tự do hạnh phúc cho quê hương Việt Nam, các cha có hỏi ý kiến của ngài. Ngài đã góp ý thật đơn sơ: “Mỗi ngày các cha hãy đọc một kinh Kính Mừng để cầu nguyện cho Việt Nam”.


    Trong Năm Thánh 2000, sau khi gửi tặng ngài tập thơ Ave Maria của thi sĩ Lê Ngọc Hồ, tôi mừng vui biết bao khi nhận được tấm thiệp của ngài với lời nhắn nhủ: “Tôi sẽ cầu nguyện cho cha được thêm lòng yêu mến Đức Mẹ như cha xin.” 

   Cảm ơn Chúa và Mẹ đã gửi Đức Hồng Y Phanxicô-Xaviê vào đời con như một tấm gương sáng ngời, một người hùng khí phách, một bậc thày khả ái, một đấng bảo trợ thế giá để giúp con vui tiến trên đường yêu mến Chúa, yêu mến Mẹ, yêu mến Giáo Hội và quê hương. Như ngôn sứ Êlisa đã xin cho được gấp bội thần trí của thày mình là Êlia, con cũng nài xin Mẹ qua lời chuyển cầu của Đức Hồng Y ban cho con gấp bội lòng yêu mến Mẹ của ngài, để noi gương ngài, con sẽ ngày càng thêm lòng yêu mến Mẹ và giúp mọi người mến yêu Mẹ thiết tha. Nhờ vậy, con sẽ được trở nên chứng nhân đức tin, nên sứ giả của niềm vui và hy vọng, và nên thánh đúng như ước nguyện cao cả và xác tín sâu xa của chính Đức Hồng Y muốn dành cho mọi tín hữu chúng con. Amen.

   (Aug. 3-5, 2008)
PS: Bài này đã được đăng trên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp số tháng 9-2008 và trong tập sách Có Mẹ Trong Đời. Nay xin chia sẻ cùng than hữu Thanhlinh.net 
HP (Oct. 19, 2020)