Nhảy đến nội dung

Con là con yếu dấu của Cha

LỄ CHÚA GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA NĂM B : MC 1,7-11

            Khi ấy, ông Gio-an rao giảng rằng : “Có Đấng quyền thế hơn tôi, đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”

            Hồi ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán : “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”

           

CON LÀ CON YẾU DẤU CỦA CHA

            Trong một ngôi nhà thờ đầy người ở miền quê Trung Quốc, các lễ nghi phụng vụ đang bắt đầu thì một anh lính có vũ trang đi vào. Cộng đoàn hoảng hốt (Ở Trung Quốc, chỉ những nhà thờ thuộc Giáo hội Yêu nước mới được mở). Thấy thế, anh làm cho mọi người yên tâm bằng cách làm dấu Thánh giá, một dấu hiệu chứng tỏ anh tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi.

            Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng hình ảnh đặc trưng nhất về mầu nhiệm đó. Như trong bài Tin Mừng lễ Hiển linh tuần trước, nó cũng được viết sau biến cố Phục sinh. Dưới ánh sáng của mầu nhiệm này, tác giả Tin Mừng ngược dòng thời gian trở về biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa, để giúp ta khám phá nơi sự kiện ấy việc hoàn tất những lời đã hứa cho Ít-ra-en xưa và việc mạc khải một mầu nhiệm mới liên can tới bản thân Người. Được các thánh sử kể lại ngay trước khi Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ, trình thuật cho thấy từ nay phải hiểu toàn bộ cuộc đời công khai của Người dưới ánh sáng đó (nó chiếu rọi trước hào quang Phục sinh). Và rồi, trong lần hiển hiện đầu tiên của Thánh Thần này, trong cuộc xuất đầu lộ diện của Con Thiên Chúa giữa loài người này, ta chứng kiến thời buổi cánh chung đã khởi đầu, triều đại Thiên Chúa đã khai mở.

            1. Hoàn tất những lời hứa xưa

            Trước hết, cuộc “ra mắt” nhân vật Giê-su được thuật lại bằng một công thức vay mượn từ Cựu Ước, lấy ở đầu sách Xuất hành (2,11), chỗ nói về cuộc ra mắt của Mô-sê : “Hồi đó, ông Mô-sê đã lớn, ông ra ngoài thăm anh em đồng bào”. Ngay từ đầu, Đức Giê-su được giới thiệu như là Mô-sê mới (y như trong Mát-thêu)

            Cuộc thần hiện của Thiên Chúa xảy ra khi Đức Giê-su “vừa lên khỏi nước”. Nhận xét này có ý trình bày Người như Mô-sê mới một lần nữa. Quả thế, ta tìm thấy nơi ngôn sứ I-sai-a một lời cầu tha thiết xin Thiên Chúa tái diễn lại những hành động cứu thoát như thời Xuất hành. Mác-cô được gợi hứng từ một đoạn sách trong đó có câu : “Đâu rồi, Đấng đã đưa vị mục tử đàn chiên của Người (=Mô-sê) lên từ biển?” (Is 63,11). Phép rửa Đức Giê-su chịu là một cuộc vượt qua mới khỏi Biển Đỏ. Người sẽ là Mô-sê mới, đưa dân mình vượt qua nước trong một cuộc Xuất hành mới, để tiến tới một Giao ước mới, hướng về một Đất hứa mới.

            “Đức Giê-su liền thấy các tầng trời xé ra (mở tung ra)…”. Theo truyền thống Do-thái, từ thời các ngôn sứ cuối cùng, các tầng trời nơi Thiên Chúa ngự đã khép lại. Ngôn sứ chẳng còn nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa với loài người cũng đã bị cắt đứt. Bởi thế đến hôm nay, khi Người đáp lại tiếng van nài của vị ngôn sứ trong cảnh lưu đày khốn khổ : “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống” (Is 63,19), thì đúng là một thời mới đã mở màn, mối liên lạc đã được tái lập giữa TC với phàm nhân. Kiểu nói “xé ra” sau này chỉ trở lại dưới ngòi bút Mác-cô vào giây phút Đức Giê-su tắt thở trên thập giá : “Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (15,38). Điều đã được khai mở hôm nay trên dòng sông Gio-đan rồi đây sẽ được hoàn tất mỹ mãn trên gò Sọ : Đức Giê-su sẽ mở ra một lối đi cho hết mọi người được tự do đến với Thiên Chúa. Chiều Thứ sáu đẫm máu ấy, với việc tấm màn Đền thờ ngăn cách toàn dân với Nơi thánh bị xé toang, ai ai cũng có thể thong dong đến với Người, miễn là tâm thành ý thiện.

            Và “… thấy Thần khí ngự xuống trên mình”. Trước khi Đức Giê-su đến, Thần Khí đã như bị dập tắt : Người chẳng còn ngự xuống để khơi dậy thêm những ngôn sứ mới nữa. Ở đây, việc Thần Khí ngự xuống trên Đức Giê-su chỉ định Người làm vị Ngôn sứ của thời cánh chung.

            Cuối cùng, tiếng phán từ trời vọng lại và hoàn tất ý nghĩa một số câu nói trong Cựu Ước. Trước hết, nó vọng lại một câu nói trong Thánh vịnh 2 : “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (c.7) mà truyền thống Do-thái vẫn đọc lên như lời sấm về Đấng Mê-si-a. Ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, Đức Giê-su đã được tuyên phong là Vua Cứu Thế thuộc dòng dõi Đa-vít. Tiếng phán cũng vọng lại câu nói được nhắc lui nhắc tới 3 lần trong Sáng thế 22, lúc Áp-ra-ham, vì vâng lệnh Thiên Chúa, toan ra tay sát tế I-xa-ác, “đứa con yêu dấu” của ông. Đức Giê-su được xem như một I-xa-ác mới, khác chăng là Người đã chẳng thoát khỏi tử thần. Sau cùng là vọng lại nhiều từ trong Is 42,1 : “Đây là người tôi tớ Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và hết lòng quý mến…”. Như tôi trung này, Đức Giê-su, Đấng Thiên Chúa hằng một niềm dấu ái và Thần Khí ngự xuống dư đầy, nay được sai đi thi hành sứ mạng là “làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, mở mắt cho những ai mù lòa, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42,6-7). Và cũng cùng thân phận với Tôi trung được ngôn sứ tiên báo, Đức Giê-su sẽ phải thực hiện sứ mạng ấy qua con đường tự hạ, đau khổ.

            2. Mạc khải một mầu nhiệm mới

            Thế nhưng, ngoài việc thể hiện các tiền ảnh đó, Đức Giê-su còn mạc khải một điều rất mới liên quan đến bản thân mình. Về mầu nhiệm của Người, các nhà chuyên môn nói đến Ki-tô học hướng lên (đi từ Đức Giê-su con người lên Đức Giê-su Con Thiên Chúa) và Ki-tô học hướng xuống (đi từ Ngôi Lời TC xuống Đức Giê-su người Ga-li-lê). Lời gợi nhớ việc đi xuống gây chóng mặt nhất là lời của thánh Gio-an : “Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Còn sự đi lên lạ lùng nhất được mô tả trong bài Tin Mừng chúng ta đang suy niệm : từ Đức Giê-su Na-da-rét lên Con yêu dấu của Chúa Cha.

            Người con của ông Giu-se này đã ra đi từ một ngôi làng khiêm tốn xứ Ga-li-lê để đến nhận phép rửa thống hối trao ban bên bờ sông Gio-đan bởi Gio-an Tẩy giả. Đức Giê-su kín đáo đứng cuối hàng và dìm mình xuống nước trước mặt Gio-an như bất cứ ai. Nhưng ngay khi bước lên bờ, Người liền bùng vỡ cảm thức mình là ai, và một tiếng nói tự trời vang xuống : “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

            Như Mác-cô nói, khi thiên hạ vừa nghe lời khẳng định như thế, “các tầng trời mở tung ra (xé ra)”, Thiên Chúa tự mạc khải. Sở dĩ Đức Giê-su là Con, chính vì Thiên Chúa có một người Con ! Nhưng phải hiểu điều này thế nào ? Thiên Chúa là một hay ba ? Anh em Chính thống trả lời : Thiên Chúa là Thiên Chúa, Người đã mạc khải sao thì y như vậy.

            Đức Giê-su là kẻ mạc khải. Mạc khải về Chúa Cha bằng cách mải miết nói đến các liên hệ độc nhất của mình với Đấng mà Người gọi là Abba (Lạy Cha ? Ba ơi ? Cha yêu dấu ?) Đừng lọc lựa vô ích, chúng ta chẳng có từ để diễn tả mầu nhiệm này. Nhưng khi sống đủ với Chúa Con, chúng ta sẽ được cho biết một điều gì đó về cái thực tại vượt trên ngôn từ như vậy. Rồi dẫu Đức Giê-su đã dùng lời để mạc khải về Thần Khí ít hơn, Tin Mừng vẫn không ngớt cho ta hay Người tràn đầy Thần Khí, theo sự hướng dẫn của Thần Khí, ban cho ta chính Sức Mạnh ấy để hiểu Người và sống nhờ Người.

            Đức Giê-su, kẻ xuất thân từ làng Na-da-rét ấy, là Con Thiên Chúa, đó không chỉ là một định nghĩa hay một danh xưng, mà còn là một liên hệ tình yêu, một mối dây “gia đình”. Tiếng Chúa Cha đã vang lên trìu mến đúng là một khẳng định của tình yêu : Đức Giê-su vừa là kẻ xuất thân từ Na-da-rét, vừa đồng thời là Đấng sống mật thiết với Cha trên trời. Đây mới thực là “mầu nhiệm” của Người, mà ta chẳng bao giờ tát cho cạn, suy cho thấu. Mầu nhiệm của một con người hoàn toàn sống cho tình yêu, tràn đầy Thần Khí tình yêu. Cuộc đời Đức Giê-su ngay tự ban đầu đã được xác định qua tương quan với Chúa Cha và với Thần Khí. Đó chính là nét thâm sâu của bản thân Người. “Con Chí Ái của Cha” chính là danh thiếp của Người vậy.

            Chính từ những mạc khải đó đã nảy sinh từ “Ba Ngôi” nơi các Ki-tô hữu. Giáo Hội và các nhà thần học đã xây dựng cả một ngôn ngữ để ta có thể nói chút ít về mầu nhiệm một Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi. Nhưng mầu nhiệm này, vừa mời gọi ta đến gần Thiên Chúa, vừa làm cho việc đó thành rất khó khăn. Vì những khó khăn ấy, nhiều Ki-tô hữu trong thực tế sống bên lề mạc khải Ba Ngôi. Tuy nhiên, nói mạc khải là nói quà tặng của Thiên Chúa. Chúng ta có từ chối quà tặng này chăng ? Đức tin Ki-tô giáo không phải là việc trí tuệ ta đi lên một Thiên Chúa của các ý tưởng, song trước hết là việc đón tiếp điều Thiên Chúa đã muốn nói với ta về Người, điều Người đã có thể nói với các từ của chúng ta, và đặc biệt qua sự hiện diện của Con Người. Từ đó, vâng, từ đó đức tin chúng ta mới là công việc của trí tuệ, một công việc được làm trong cầu nguyện, khiêm tốn và biết ơn. Lạy Chúa, xin chúc tụng Chúa đã cho các thánh sử nói với chúng con rằng Đức Giê-su là Con yêu dấu của Ngài.

           

CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN NĂM B : GA 1,35-42

            Khi ấy, ông Gio-an đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói : “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi : “Các anh tìm gì thế ?” Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu ?” Người bảo họ : “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.

            Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: “Anh là Si-môn con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).

           

LÀM CHỨNG VÀ TÌM KIẾM ĐỨC GIÊ-SU NÀO ?

            Có một ông lão được nhận vào bệnh viện để điều trị. Sau khi giúp ông cụ được thoải mái, cô y tá hỏi ông vài câu theo lệ thường, để điền vào giấy tờ thủ tục nhập viện. Một trong những câu cô hỏi ông là : “Ông quý chuộng tôn giáo nào hơn cả ?” Cụ già nhìn cô y tá và bảo : “Tôi rất vui sướng được cô hỏi câu ấy, tôi luôn muốn là một người Công giáo, cũng như muốn tế nhị tỏ ra điều đó cho mọi người, nhưng trước đây chưa hề có ai hỏi tôi như vậy. Chính cô là người đầu tiên đã hỏi tôi. Xin cám ơn cô”.

            1. Những người làm chứng

            Trong chúng ta, có nhiều người do dự khi chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác. Làm như thế, họ chẳng giống tí nào với những chứng nhân mà chúng ta bắt gặp trong bài Tin Mừng hôm nay và trong những câu trước đó nữa. Dựa vào Ga 1,29.35.43 (Hôm sau) và 2,1 (Ngày thứ ba), vài học giả phân chia giai đoạn đầu này trong sứ vụ của Đức Giê-su làm 7 ngày. Đó là tuần lễ đầu tiên của cuộc tạo thành mới (Ga 1,19-2,11), so chiếu với 7 ngày của cuộc tạo thành cũ ; mỗi ngày đều có chứng từ về Tác giả cuộc tân sáng tạo. — Ngày thứ nhất (1,19-28) : chứng nhân : Gio-an Tẩy giả trước các tư tế và Lê-vi ; chứng từ : Gio-an không phải là Đấng Ki-tô, không phải là Ê-li-a vị ngôn sứ được trông đợi của Ml 3,23, cũng chẳng phải là vị Ngôn sứ của Đnl 18,15.18, mà chỉ là “tiếng của người hô trong hoang địa” ; ông tự xét không đáng cởi quai dép cho vị đến sau mình. — Ngày thứ hai (1,29-34) : chứng nhân : Gio-an Tẩy giả khi thấy Đức Giê-su ; chứng từ : Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” ; Người trổi hơn Gio-an, được Thần Khí ngự trên mình, làm phép rửa trong Thần Khí, và là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn. — Ngày thứ ba (1,35-39) : chứng nhân : Gio-an Tẩy giả trước hai môn đệ mình, họ đi theo Đức Giê-su lúc 10 giờ và ở lại với Người ; chứng từ : “Đây là Chiên Thiên Chúa”. — Ngày thứ tư (1,40-42) : chứng nhân : An-rê cho Si-môn ; chứng từ : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a”. — Ngày thứ năm (1,43-51) : chứng nhân : Phi-lip-phê cho Na-tha-na-en; chứng từ: “Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp”; chứng nhân: Na-tha-na-en ; chứng từ : “Chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en” — Ngày thứ sáu, hiểu ngầm trong 2,1 (ngày thứ ba là ngày thứ bảy trong tuần lễ khai mạc). — Ngày thứ bảy (2,1-11) : chứng nhân : phép lạ của Đức Giê-su ở Cana ; chứng từ : “Đức Giê-su …đã bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người”.

            Trình thuật hôm nay bao gồm ngày thứ ba và thứ tư theo lối phân chia nói trên. Nó gồm hai cuộc làm chứng. Trước hết là của Gio-an Tẩy giả, sau đó là của An-rê. Gio-an chứng nhận trước hai môn đệ thân tín rằng Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa”. Nhưng xin lưu ý : Tin Mừng thứ tư không hề mô tả cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và Gio-an Tẩy giả. Chẳng lời trao đổi nào giữa hai vị được thuật lại. Gio-an nhìn thấy, giới thiệu và nói về Đức Giê-su thôi. Ông không phải là môn đệ mà chỉ là chứng nhân cho Người. Là tiền hô của Đấng phải đến, là bạn của Tân lang, là tiếng nói của Ngôi Lời, là ngọn đèn của Ánh sáng. Điều ông phải nói, ông đã học được từ Đấng sai ông. Sau phép rửa trong nước của ông là phép rửa trong Thánh Thần. Gio-an vừa là kẻ được chiêm ngưỡng cái thực tại mới mẻ, như Mô-sê được nhìn thấy Đất hứa từ xa, vừa là kẻ hướng mọi người về đó, bằng cách giới thiệu Đức Giê-su : “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời nói của Gio-an tác động ngay trên các môn đệ. Họ theo Đức Giê-su liền. Gio-an phải có được sức mạnh từ bỏ thật lớn lao mới có thể sẵn sàng gởi chính các môn đệ yêu của mình đến với Đức Giê-su như thế. Ông đã không chỉ dọn đường cho Người, mà còn dọn lòng thế nhân để họ biết và theo Người. Chứng nhân đích thực phải là kẻ biết xóa mình, luôn để mình nhỏ xuống hầu Đức Giê-su được lớn lên.

            Hình tượng Gio-an dùng để chỉ Đức Giê-su là một hình tượng giàu ý nghĩa, đã có trong Cựu Ước từ lâu. Chiên (cừu) trước hết là con vật hiền lành, im lặng ngoan ngoãn để người ta xén lông hay dẫn vào lò mổ. Ngôn sứ I-sai-a (53) thành thử đã dùng nó để ám chỉ người công chính bị hành hạ ngược đãi, phải trải qua đau thương và sự chết để xóa tội cho đời, mở ra cho đời một tương lai xán lạn. Ngoài ra, trong các truyền thống Do-thái thời Đức Giê-su, người ta có nói đến một “chiên chúa” mọc sừng cừu đực và ra sức bảo vệ đàn chiên ; hình tượng này được Gio-an lấy lại trong Khải huyền, khi ông mô tả Con Chiên bảo vệ anh em mình và tấn công các thù địch (x. Kh 6,16; 7,17; 17,14). Nó húc tung mọi chướng ngại, hất đổ mọi thế lực của sự ác. Sau cùng là con chiên mà người Do-thái bày trên bàn ăn đêm lễ Vượt Qua để kỷ niệm ngày dân tộc họ được giải phóng khỏi nô lệ Ai-cập. Tất cả các hình ảnh ấy đều thích hợp để nói về Đức Giê-su : Người là Tôi Trung đau khổ gánh lấy vào mình mọi khổ đau của nhân loại, là chiến sĩ hòa bình phá tan mọi ngục tù, là thực phẩm được dùng trong lễ Vượt Qua mới mà chúng ta cử hành trên các chặng đường chiến đấu cho tự do đích thực.

            2. Những kẻ kiếm tìm

            Ngay khi vừa tiếp nhận các môn đệ của Gio-an Tẩy giả, Đức Giê-su khai trương sứ mạng của mình liền : “Các anh tìm gì thế?” Người hỏi Gio-an và An-rê. Đây là tiếng đầu tiên của Người, âm thanh đầu tiên của giọng nói sắp tỏ lộ cho họ lắm chuyện lạ lùng, và dẫn họ đi thật xa. Đức Giê-su thấy họ đang tìm kiếm. Cho đến lúc ấy, họ đã theo Gio-an Tẩy giả ; không ngập ngừng, họ bỏ ông để đi theo kẻ lạ mặt này. Đây sẽ là cơ may kỳ diệu của họ, nên Gio-an cẩn thận ghi chú thời điểm : giờ thứ mười (bốn giờ chiều), Đức Giê-su đã lập tức có cảm tình với họ, Người yêu những kẻ có thể vì Người mà bỏ tất cả. Nhưng ngay câu đầu tiên Người hỏi đã muốn đi sâu vào họ rồi : “Các anh tìm gì thế ? Các anh sắp đợi chờ gì ở tôi ?” Vì đâu phải hễ nghe lời chứng của thầy cũ là đủ. Họ cần ý kiến cá nhân và kinh nghiệm trực tiếp.

            Người phải hỏi như thế, bởi lẽ thiên hạ lầm lẫn rất nhiều về Người. Cũng một câu hỏi tương tự như thế sẽ là lời đầu tiên Đấng Phục Sinh sau này ngỏ với Ma-ri-a Mác-đa-la : “Bà tìm ai ?” (tìm Đấng Sống hay kẻ chết ?). Câu hỏi ấy đã gợi lên cho hai môn đệ ý thức rõ điều họ thực sự đang tìm kiếm, đồng thời mời gọi chính chúng ta là những độc giả Tin Mừng hôm nay biết đặt mình trước mặt Đức Giê-su để làm sáng tỏ ý nghĩa sau cùng của cuộc hành trình nội tâm của chúng ta. Vì lúc này đây, Người cũng bảo chúng ta : “Bạn tìm gì ? Bạn tìm ai khi bạn tới với tôi ?”

            Có lẽ cảm thấy khá mơ hồ, nên Gio-an và An-rê hỏi lại : “Thầy ở đâu?” Câu hỏi này vượt xa chuyện chỉ đơn giản liên can đến nơi ăn chốn ở của Đức Giê-su, nó đã hướng tới đời sống thân mật của Đức Giê-su với Cha Người (“Con Một là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha” Ga 1,18). Và chính Đức Giê-su mời gọi các ông : “Đến mà xem”. Lời mời không chỉ là tới tham quan cho biết chỗ Người chọn làm nhà ở, mà là đi vào một cuộc gặp gỡ thiết thân với Người, là biết Người một cách thâm sâu hơn, là kiểm nghiệm bằng mắt thấy tai nghe, bằng con người xương thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đức tin mình. Vì thế chúng ta đã đọc thấy nơi 1Ga 1,1-3: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã đụng chạm… Chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi”. Chúng ta hôm nay cũng hỏi như vậy : “Thầy ở đâu ?” Bởi lẽ chúng ta tìm Người trong Tin Mừng nhưng chẳng còn tiếng nói lẫn đôi mắt của Người. Đối với chúng ta, Người sẽ mãi mãi là một mầu nhiệm hiện diện-khiếm diện gây bối rối.

            Chúng ta biết Người có đó, Người đang tác động lên thế giới và Người muốn tác động lên cuộc đời chúng ta, nhưng phải có sức mạnh đức tin biết bao (chỗ bám duy nhất của ta !) để tiếp xúc với Người và duy trì việc tiếp xúc ấy. Chúng ta bị cám dỗ chỉ nghĩ đến con người hôm qua. Người đã nói, và chúng ta dễ coi Người như một bậc thầy khôn ngoan, sử dụng Người để hỗ trợ các ý tưởng hay nhất của chúng ta về công lý, mở Tin Mừng như mở một hòm châu báu để tìm trong đó những lời vàng ngọc.

            Nhưng phần Người thì sao ? Người hằng sống ! Người chờ đợi bước chân chúng ta để quay lại mà bảo : “Bạn muốn gì ?” Trước câu hỏi này, chỉ có một câu đáp, câu thay đổi cuộc đời, ân sủng của mọi ân sủng, khi nó xuất phát từ tất cả bản thân ta : “Cái con muốn, chính là Chúa”. Chính là Chúa như Đấng Cứu độ duy nhất, Đấng Giải phóng đích thực, chứ không chỉ là lẽ khôn ngoan của Ngài, và càng không phải là những ân huệ vật chất của Ngài. Chính là Chúa như tình yêu tuyệt đối của con, sự sống viên mãn của con, hạnh phúc vĩnh cửu của con, ý nghĩa tối hậu của đời con !  

Tác giả: