Nhảy đến nội dung

Công giáo và Thiền

  Công giáo và Thiền Nguyễn Ước   Công giáo Thiền

      Tại hầu hết các thành phố lớn ở Âu Mỹ, cùng với đà phát triển các thiền đường và sự có mặt của tranh ảnh thiền, âm nhạc thiền trong các trung tâm phục hồi (rehabilitation center) và tâm lý trị liệu, đang lưu hành vô số sách về thiền, đặc biệt cuốn Zen Catholicism (Công giáo Thiền, 1963), tái bản năm 1994, của tu sĩ dòng Ða Minh Aelred Graham. Trong cuốn đó tác giả, từ cuộc sống đan viện và chiêm nghiệm của mình, đã duyệt lại học thuyết Công giáo từ Augustine, Thomas Aquinas, sang tới Baghavad Gita, Ðạo đức kinh, kinh điển Phật giáo, Thiền tông và các tác giả viết về triết học Ðông phương như Suzuki, Aldous Huxley, v.v.

      Hẳn không công bằng với Graham khi tóm lược những suy tưởng độc đáo của ông trong đôi dòng ngắn ngủi, tuy thế, bị giới hạn bởi khuôn khổ của bài này, ta hãy cứ tạm bằng lòng với cái nhìn lướt qua chương bảy, “Playing God or letting God play?” trong đó. ông mạnh dạn trình bày quan điểm của mình. Câu hỏi Graham đặt ra là bạn đang chơi trò Thượng đế hay bạn đang để Thượng đế nô đùa trong bạn.

      Với Graham, nội hàm “phục sinh” của Kitô hữu bao gồm được “cứu độ, giác ngộ và giải phóng”. Con người không thể đạt tới cảnh giới “ba trong một” ấy bằng cách chơi trò Thượng đế với tha nhân, thiên nhiên và thậm chí với bản thân mình, như một hệ quả của khái niệm “hoàn toàn qui thuận và vâng theo thánh ý”, được hiểu một cách chính thống cho tới lúc này. Lý do chủ yếu là con người vốn quờ quạng trong tình trạng bị điều hiện hoá, và không thể được cứu độ nếu không hướng tới giác ngộ và tự do, hai thành tố đi liền với nhân phẩm được Thượng đế dự kiến cho con người theo “hình ảnh ngài”.

      Trong thực tế, con người đang chơi trò Thượng đế, giữa người này với người khác, giữa vợ chồng, cha mẹ với con cái, chính quyền và dân chúng, v.v… với những toan tính chủ quan nằm đằng sau những gì kẻ này dự kiến/thiết kế cho kẻ khác và cho môi sinh. Hành động phán đoán kẻ khác cũng là một hình thức chơi trò Thượng đế vì đó là phóng chiếu bản ngã của mình lên tha nhân. Chính Ðức Kitô đã dạy: “Ðừng phán xét để khỏi bị phán xét” (Matthêu 7:1-5).

      Với Thiền tính hoặc “vô vi”, nghĩa là mộc mạc trong tâm hồn và hồn nhiên trong hành động (vi vô vi), con người sẽ không còn chơi trò Thượng đế mà là để Thượng đế nô đùa trong mình. Và như thế, con người giác ngộ và tự do, vì lúc ấy, cụm từ “qui thuận thánh ý” được hiểu theo nội hàm mới là sự hoàn toàn hiệp nhất với Thượng đế với một tâm linh phong phú. Theo Graham, có thể rút tỉa từ Ðạo học và Thiền tông ra những yếu tố tích cực cho trạng thái “để Thượng đế nô đùa trong mình”.

      “Bạn đang chơi trò Thượng đế hay đang để Thượng đế nô đùa trong bạn?” Ðáp án cho câu hỏi ấy hẳn sẽ có những tác động tích cực lên nền triết học kinh viện lẫn triết học thế tục của Tây phương trong đó Thượng đế và ý chí của Thượng đế vẫn là chủ đề chính. Và thậm chí có thể góp phần cởi bỏ ách nặng nề đang đè lên các cơ chế hội thánh. Loại tác động như thế thật ra không mới, vì suốt mấy ngàn năm qua, học thuyết của Kitô giáo không xa lạ với việc tái thông giải, kể cả sử dụng ý tưởng triết học nào (thí dụ như thuyết Tân Plato và tác phẩm của Aristotle, v.v…) mà nhà thần học đương thời cảm thấy thuận lý và thích đáng.

  Không còn chánh pháp hay tà thuyết?

      Dĩ nhiên nhất thời sẽ xuất hiện những ý tưởng mang tính dị ứng. Thế nhưng theo Graham, không có gì nguy hiểm hoặc hoang mang khi áp dụng các ý tưởng của Thiền vào Công giáo. Ông viết: “Loại nỗ lực có tính thử nghiệm ấy, như Ðức Thánh cha Gioan XXIII đã chỉ ra cho thấy là chẳng có dấu hiệu nào không thích hợp. Ngài có ngụ ý nói tới tính khả thi và đồng thời chỉ tới các hệ quả của học thuyết giáo hội về các vấn đề trọng đại thời nay, đáp ứng lại những phản ứng vụ hình thức thậm chí của những người Công giáo hữu trách nhất. Ngài đã cảnh cáo rằng ‘Có phải lời giảng của Giáo hội chỉ là những lời nói không hiệu quả, và sức mạnh nằm về phía những luận cứ cho rằng Giáo hội không đủ khả năng sẵn sàng có giải pháp cho các vấn đề khó khăn nhất trong cuộc sống thời nay. Những ngôn từ tuyên bố ra bên ngoài phải là những thông điệp đến từ ánh sáng của tâm linh bên trong. Nếu nó được quản lý một cách đứng đắn, thì có lẽ không ai trong chúng ta bị thương tổn nếu ít nhất nếm trải phong vị của Thiền’”. (Zen Catholicism, Nxb Crossroad, New York 1994, tt.20-21).

      Tự thân cuốn Công giáo Thiền và lời tuyên bố của Đức Gioan XXIII [1881-1958-1963] không có tính triết học, nhưng chúng có thể góp phần tạo thành khởi điểm cho những nỗ lực khác nhằm mở cánh cửa giao lưu giữa thần học Kitô giáo và triết học Ðông phương, đưa tới không gian rộng rãi cho các triết gia Kitô hữu.

      Trong cuộc gặp gỡ Ðông Tây ấy, Thiền với những xung phá bẻ gãy lối tư duy qui ước và nhị nguyên, sẽ đóng vai trò phóng khoáng và tự phát cho cuộc tụ hội triết học của loài người để bắt kịp đà sống trong “thời buổi hậu hiện đại”. Phải chăng đã tới lúc con người không còn có thể cưỡng lại cái nhìn tới quá bên kia lý thuyết tôn giáo đặc thù của mình, nhẹ nhàng buông bỏ kiểu nói “chánh pháp hoặc tà thuyết” mang tính phân biệt chủ nghĩa, và an tâm để cho loại từ ngữ ấy chìm dần vào quá khứ?

  Giác ngộ và Cứu độ (thiền thoại)

      - Thưa thầy, thầy có từng đọc Kinh Thánh?

      Nga Sơn Thiều Thạc đáp:

      - Chưa, con đọc cho ta nghe với.

      Gã đệ tử mở cuốn Tin Mừng theo thánh Mat-thêu ra và đọc:

      - Còn về áo mặc cũng thế, các ngươi lo lắng làm chi? Cứ xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên như thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà Ta bảo cho các ngươi biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bực, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy...

      Nga Sơn nói:

- Dù người nói ra lời ấy là ai đi nữa, ta xem đó là đấng đã giác ngộ.

 

Chú thích: Nga Sơn Thiều Thạc (Gasan Jôseki 1275-1365) Thiền sư Nhật Bản lỗi lạc đứng thứ ba của tông Tào Ðộng, sau Sau Ðạo Nguyên và Oánh Sơn. Ông chú trọng tới việc thuyết pháp và hoằng hóa quần chúng, nhất là những người thuộc đẳng cấp thấp của xã hội.

 
Tác giả: