Nhảy đến nội dung

Cộng tác

 

 

CỘNG TÁC

Người tội lỗi là người mà xã hội thời nào cũng khinh ghét và loại bỏ. Đó cũng là chuyện thường tình. Vì chưng, nếu cứ dung túng cho người tội lỗi, ắt hẳn họ sẽ được đà rồi bành trướng tội lỗi của mình khiến cho bao người thêm bất hạnh bởi tội ác của họ gây ra. Khinh ghét người tội lỗi là điều đúng. Thế nhưng, thay vì chỉ khinh ghét, mọi người phải tìm cách khiến cho người tội lỗi hối cải và nhìn nhận khuyết điểm của mình. Có như thế mới cơ mong người phạm tội bớt lỗi phạm hơn. Bằng không, nếu cứ càng đẩy họ vào con đường cùng, chẳng biết họ sẽ còn gây tội ác tày đình nào hơn thế nữa.

        Lý thuyết là vậy, nhưng trên thực tế, ai chẳng là người tội lỗi. Có ai trên thế giới này sạch tội cả đâu, tội nhiều tội ít, không gì thì cũng không thể là người hoàn hảo tuyệt đối được, ngoại trừ Thiên Chúa mà thôi.

        Ai cũng là người phạm tội, có điều mỗi người mang trong mình những thứ tội khác nhau, không ai giống ai, người phạm nhiều, kẻ phạm ít. Thế nên hơn thua là ở thái độ đối với lỗi tội. Tội nhiều hay ít, nặng hay nhẹ chưa thực sự quá quan trọng, nhưng cần thiết hơn vẫn chính là lòng hoán cải, nhìn nhận thiếu xót của mình sau mỗi lần phạm tội và quyết tâm chừa cải trở về. Đó mới là điều căn bản nhất.

        Dakêu là một trong những người tội lỗi như bao người, nhưng ông bị đối xử khác với mọi người là do ông làm nghề thu thuế, một nghề được coi là tội lỗi hơn người khác. Vì vậy mà ông không được coi trọng, lại còn bị khinh miệt. Thế nhưng, đâu cứ phải tội lỗi mà là hết thuốc chữa, đâu có phải tội lỗi mà bị loại trừ coi như không. Người có tội cũng vẫn là con người, và kẻ không phạm tội cũng vậy, ai ai cũng cần phải được tôn trọng nhân phẩm cho đến cùng.

        Khi nghe biết về danh Đứa Giêsu, ông Dakêu đã tìm mọi cách để được gặp Ngài. Không biết có phải vì tò mò, hiếu kỳ hay là vì ơn riêng. Thoạt đầu, ông chỉ muốn: “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai” (Lc 19, 3). Và để đạt được lòng muốn ấy, ông đã tìm mọi cách để thực hiện: “Vì dân chúng quá đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu.” (Lc 19, 3-4)

        Chính thiện chí của ông đã khiến Đức Giêsu chạnh lòng, Ngài đã đưa mắt nhìn đến ông: “Này ông Dakêu, mau xuống đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19, 5) không còn gì vui hơn khi ước muốn của mình được trở thành hiện thực, nhất là ước muốn được đối phương nhận biết và đáp trả. Mặc dầu ông không nói một lời nhưng Đức Giêsu đã nghe thấu được mong muốn của ông và Ngài đã đáp trả. Hơn cả những gì ông mong đợi, thay vì chỉ là hiếu kỳ, ông đã hoàn toàn biến đổi, từ một người tội lỗi, giàu có, ông đã biết san sẻ, cho đi và đền bù. Mặc dầu Đức Giêsu chưa nói gì cả, đó là sự tự nguyện của bản thân con người được ơn biến đổi, là kết quả của sự gặp gỡ thiêng liêng giữa ông và Chúa. Trước khi gặp được Ngài, ông là người khác, nhưng sau khi vừa gặp được Chúa, ông đã hoàn toàn thay đổi: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19, 8)

        “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ” (Lc 19, 7), thiên hạ thì đối xử với ông như vậy đấy, khinh thường ông thế đấy, nhưng người tội lỗi mà sao biết thực hiện những điều mà ngay cả người xem mình vô tội cũng không thể làm được. Bố thí cả nửa tài sản cho người nghèo và đền bù cho người bị thiệt đến gấp bốn lần. Quả tốt lành quá đúng không? Phần thưởng dành cho sự biến đổi của ông rất xứng đáng: “Hôm nay, ơn cứu độ đả đến cho nhà này.” (Lc 19, 9)

        Lạy Chúa, ơn cứu độ là ơn Ngài ban nhưng không cho nhân loại. Thế nhưng để có thể lãnh nhận ơn ấy, nhất thiết phải có sự cộng tác của con người. Dakêu hôm nay đã lãnh nhận được ơn cứu độ, vì ông đã hết lòng cộng tác với lòng muốn và tình thương của Thiên Chúa, xin giúp con hiểu rằng không gì hạnh phúc bằng được Thiên Chúa yêu thương và đoái đến. Xin giúp con biết sống thế nào mà chỉ cần nhìn đến hành động của con, không cần phải nhiều lời cầu xin, than vãn, Thiên Chúa cũng ghé mắt nhìn và ban ơn xót thương.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.