Đại Hội Khoáng Thường Lần Thứ 16 Của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Lm Xuân Hy Vọng
TÀI LIỆU CHUẨN BỊ
cho ĐẠI HỘI KHOÁNG THƯỜNG lần thứ XVI
của THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THẾ GIỚI
Hướng tới một Giáo hội mang tính Hiệp hành:
Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ
NỘI DUNG
I. Ơn gọi cùng nhau đồng hành
II. Một Giáo hội Hiệp hành theo Hiến chế
III. Lắng nghe Kinh thánh
Đức Giê-su, Đám đông dân chúng, các Tông đồ
Động lực kép của sự Hoán cải: Thánh Phê-rô và ông Cor-nê-li-ô (Cv 10)
IV. Tính Hiệp hành trong Hành động: Những nẻo đường hội kiến Dân Chúa
Câu hỏi Cơ bản
Các Lối diễn tả khác nhau về tính Hiệp hành
Mười chủ đề cốt lõi cần được khám phá
Đóng góp cho cuộc tham khảo
*************************
1. Giáo Hội của Thiên Chúa được triệu tập tại Thượng hội đồng. Nẻo đường mang tên “Hướng tới một Hội Thánh Hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ” sẽ được khai mạc long trọng vào ngày 9-10 tháng 10 năm 2021 tại Rô-ma và sau đó được bắt đầu tại mỗi Giáo hội địa phương vào ngày 17 tháng 10. Giai đoạn căn bản chính là việc cử hành Đại hội khoáng thường lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới vào tháng 10 năm 2023, [1] sẽ được tiếp nối với giai đoạn tiến hành, mà các Giáo hội địa phương một lần nữa tham dự (x. EC, điều 19-21).
Với biến cố triệu tập này, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô mời gọi toàn thể Giáo hội suy tư về một chủ đề mang tính quyết định đối với đời sống và sứ vụ của mình: “Chính con đường hiệp hành này được Thiên Chúa mong đợi ở Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba” [2]. Cuộc hành trình này, diễn ra sau công cuộc “canh tân” Giáo hội do Công đồng Vatican II đề xướng, vừa là ân sủng vừa là trách vụ/sứ vụ: nhờ cùng nhau đồng hành và suy gẫm về cuộc hành trình đã được thực hiện, có lẽ Giáo hội sẽ học hỏi qua kinh nghiệm của mình những diễn trình nào hữu dụng giúp Giáo Hội sống tinh thần hiệp thông, chung tay thông dự, rộng mở chính Giáo Hội hầu thực hiện sứ vụ. Trên thực thế, việc chúng ta “cùng nhau tiến bước” thể hiện và biểu lộ một cách hữu hiệu tối ưu bản chất của Giáo hội như là đoàn Dân Chúa đang lữ hành và truyền giáo.
2. Một nghi vấn căn bản gợi mở và hướng dẫn chúng ta, đó là: Làm thế nào để việc “cùng nhau tiến bước”, vốn diễn ra ngày nay trên các bình diện khác nhau (từ địa phương đến toàn cầu), cho phép Giáo hội rao truyền Tin Mừng phù hợp với sứ vụ đã được trao phó cho mình; và Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta thực hiện những bước nào để thăng tiến như một Giáo Hội mang tính hiệp hành?
Cùng nhau nêu ra nghi vấn này đòi hỏi chúng ta phải lắng nghe Chúa Thánh Thần, Đấng như cơn gió “muốn thổi đâu thì thổi; bạn nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3, 8), đồng thời vẫn mở ngỏ cho những điều kinh ngạc mà Thần Khí chắc chắn sẽ chuẩn bị cho chúng ta suốt đoạn đường. Do đó, một loại chuyển động được kích hoạt giúp chúng ta bắt đầu gặt hái một số thành quả của cuộc hoán cải mang tính hiệp hành, mà nó sẽ dần dần chín mùi. Những mục tiêu hệ trọng lớn lao này hướng tới phẩm chất nơi đời sống Giáo hội và hoàn thành sứ vụ loan báo Tin Mừng, mà trong đó tất cả chúng ta đều thông dự nhờ Bí tích Thánh tẩy và Thêm sức. Chúng ta sẽ chỉ ra ở đây những mục tiêu chính, vốn biến tính hiệp hành thành dạng thức, phong cách và cấu trúc của Giáo hội:
* nhớ lại việc Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc hành trình của Giáo Hội trong suốt dòng lịch sử và ngày nay vẫn kêu mời chúng ta cùng nhau trở nên chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa;
* sống diễn trình cộng đoàn tràn đầy tinh thần thông dự và đón nhận, nhằm mang lại cho mọi người – đặc biệt những ai, vì nhiều lý do khác nhau, nhận thấy mình bị gạt ra bên lề – có cơ hội bộc lộ chính mình và được lắng nghe, ngõ hầu góp phần vào việc gầy dựng đoàn Dân Chúa;
* nhận biết và cảm kích sự phong nhiêu đa dạng của các ơn phúc và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần tự do ân ban vì thiện ích của cộng đoàn và lợi ích của toàn thể gia đình nhân loại;
* khám phá những cách thức tham gia để thực thi trách nhiệm trong việc công bố Tin Mừng và trong nỗ lực kiến tạo một thế giới tươi đẹp hơn và đáng sống hơn;
* xem xét trách nhiệm và quyền hành được thực hiện ra sao trong Giáo hội cũng như các cơ cấu, mà nhờ đó chúng được điều hành, chiếu toả ánh sáng và cố gắng biến đổi những định kiến và các tập tục bị bóp méo, vốn chẳng bắt nguồn từ Tin Mừng;
* xác thực cộng đoàn Ki-tô giáo như một chủ thể khả tín và là đối tác đáng tin cậy trên mọi nẻo đường đối thoại xã hội, hàn gắn, hòa giải, hòa nhập và tham gia, tái thiết nền dân chủ, cổ vũ tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội;
* tái tạo mối liên hệ giữa các thành viên của những cộng đoàn Ki-tô giáo cũng như giữa các cộng đoàn và nhóm xã hội khác như: vô số cộng đoàn tín nhân từ các hệ phái và tôn giáo khác, những tổ chức xã hội dân sự, các phong trào quần chúng, v.v.;
* cổ vũ tính cảm kích và công cuộc gặt hái thành quả từ các kinh nghiệm hiệp hành gần đây trên nhiều bình diện: hoàn cầu, khu vực, quốc gia và địa phương.
3. Tài liệu Chuẩn bị này nhằm phục vụ cho chặng đường hiệp hành, đặc biệt như thể một công cụ điều phối giai đoạn đầu tiên của diễn trình lắng nghe và tham khảo ý kiến Dân Chúa tại các Giáo hội địa phương (từ tháng 10 năm 2021 đến tháng 4 năm 2022), với hy vọng hỗ trợ khơi gợi ý tưởng, năng lực và tính sáng tạo của tất cả những ai tham gia vào cuộc hành trình, đồng thời biến việc chia sẻ các thành quả từ nỗ lực của họ trở nên dễ dàng hơn.
Với mục đích này: 1) nó khởi đầu nhờ phác thảo một số đặc điểm nổi bật của bối cảnh đương thời; 2) nó minh họa một cách tổng hợp các tham chiếu thần học căn bản để có sự hiểu biết và thực hành đúng đắn về tính hiệp hành; 3) nó cung cấp một số tư tưởng Thánh Kinh có thể nuôi dưỡng việc suy niệm và suy tư cầu nguyện dọc đường hành trình; 4) nó minh họa một số viễn cảnh, rồi từ đó đọc lại những cảm nghiệm về tính hiệp hành sống động; 5) nó biểu lộ một số phương thức thông diễn công việc đọc lại này trong bầu khí cầu nguyện và sẻ chia. Kèm theo cụ thể với cách tổ chức công việc, một cuốn Cẩm nang phương pháp luận, đính kèm Tài liệu Chuẩn bị này và có sẵn trên trang mạng lưu trữ chuyên dụng được đề xuất [3]. Trang mạng cung cấp một số nguồn liệu nhằm đào sâu chủ đề tính hiệp hành, như một hỗ trợ cho Tài liệu Chuẩn bị này; trong số những cứ liệu nguồn, chúng tôi muốn nhấn mạnh hai điều được đề cập nhiều lần dưới đây, đó là: Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm Thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục, do Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô trình bày vào ngày 17 tháng 10 năm 2015, và văn kiện Tính Hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo hội, được Ủy ban Thần học Quốc tế soạn thảo và xuất bản năm 2018.
I. Ơn gọi cùng nhau gieo bước hành trình
4. Chặng đường hiệp hành mở ra trong một bối cảnh lịch sử được đánh dấu bằng những đổi thay đậm nét thời đại trong xã hội và nhờ sự chuyển tiếp hệ trọng nơi đời sống Giáo Hội, vốn không thể làm ngơ, đó là: chặng đường hiệp hành nằm trong những nếp gấp phức tạp của bối cảnh này, tồn tại trong vô vàn căng thẳng và mâu thuẫn của nó, mà chúng ta được mời gọi để “xem xét kỹ lưỡng các dấu chỉ của thời đại và giải thích chúng dưới ánh sáng Tin Mừng” (GS, số 4). Một số yếu tố của khung cảnh hoàn cầu có liên hệ chặt chẽ nhất với chủ đề mà Thượng Hội đồng phác họa ở đây; nhưng bức tranh cần được làm phong phú hơn và hoàn thành trên bình diện địa phương.
5. Thảm kịch toàn cầu như đại dịch COVID-19 “trong giây lát đã làm sống lại cảm thức chúng ta là một cộng đồng hoàn cầu, tất cả đang đi trên cùng một con thuyền, nơi mà các vấn đề của một người là những vấn đề của mọi người. Một lần nữa chúng ta nhận ra rằng chẳng ai được cứu một mình cả; chúng ta chỉ có thể được cứu cùng với nhau mà thôi” (FT, số 32). Đồng thời, đại dịch cũng khiến các tình trạng bất bình đẳng và bất công vốn đã tồn tại lâu nay, giờ lại hiện rõ mồn một: nhân loại dường như ngày càng lung lay do các quá trình quần chúng hóa và phân mảnh; điều kiện sống bi đát mà những di dân phải đối mặt ở mọi khu vực trên thế giới cho thấy rào cản phân chia gia đình nhân loại đơn nhất vẫn còn cao và lớn mạnh ra sao. Thông điệp Laudato si' và Fratelli Tutti dẫn chứng độ sâu thẳm của những đường đứt gãy chạy qua nhân loại, và chúng ta có thể nhắc tới các phân tích này để bắt đầu lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và địa cầu, đồng thời nhận ra những hạt giống hy vọng và tương lai mà Chúa Thánh Thần tiếp tục gieo vào thời đại chúng ta: “Đấng Tạo Hóa không bỏ rơi chúng ta; Người không bao giờ từ bỏ kế hoạch yêu thương của mình hoặc hối hận vì đã tạo dựng chúng ta. Nhân loại vẫn còn khả năng chung sức xây dựng ngôi nhà chung của chúng ta ” (LS, số 13).
6. Bất chấp các khác biệt lớn lao, tình trạng trên vẫn hợp nhất toàn thể gia đình nhân loại, thách đố khả năng của Giáo hội trong việc đồng hành với những cá nhân và cộng đồng, ngõ hầu đọc lại biết bao trải nghiệm tan thương và khổ đau, mà nó đã lột tả nhiều điều chắc chắn giả tạo, và nuôi dưỡng hy vọng và niềm tin vào sự thiện hảo của Đấng Tạo Hoá, cũng như công trình sáng tạo của Người. Tuy nhiên, chúng ta không thể che giấu thực tế mà chính Giáo hội phải đối diện với tình trạng thiếu đức tin và sự băng hoại ngay trong mình. Cụ thể, chúng ta chẳng thể quên đi những đau khổ mà các trẻ thành niên và những người dễ bị tổn thương phải trải qua “do lạm dụng tình dục, lạm dụng quyền lực và lạm dụng lương tâm của một số đáng kể các giáo sĩ và những vị sống thánh hiến” [4]. Chúng ta liên tục bị thách thức “với tư cách là Dân Thiên Chúa, phải mang lấy nỗi đau của anh chị em mình từng bị tổn thương nơi thân xác cũng như tinh thần” [5]. Đã quá lâu tiếng than khóc của các nạn nhân chính là tiếng kêu than mà Giáo hội chưa đủ chăm chú lắng nghe. Những vết thương hằn sâu này thật khó được chữa lành, vì ơn tha thứ chẳng bao giờ có thể xin cho đủ đầy và điều đang tạo nên nhiều trở ngại, đôi khi áp đặt chúng, trên bước đường hướng tới “đồng hành cùng nhau”. Toàn thể Giáo hội được kêu mời gọi đối diện với sức nặng của một nền văn hóa đậm đặc chủ thuyết giáo sĩ trị, mà Giáo hội vốn thừa hưởng từ chính lịch sử của mình, với đủ mọi hình thức thực thi quyền hành, mà trong đó các loại lạm dụng khác nhau được cấy ghép vào như quyền bính, kinh tế, lương tâm, tình dục. Thật không thể nào nghĩ đến “một cuộc hoán cải hoạt động của chúng ta như thể một Giáo hội không có sự tham gia tích cực của mọi thành phần Dân Chúa” [6]: nào hãy cùng nhau cầu xin Chúa ban cho chúng ta “ơn hoán cải và được xức dầu nội tâm cần kiếp, hầu biểu lộ sự hối hận và lòng quyết tâm chống lại những tội ác lạm dụng này" [7].
7. Dù chúng ta bất trung đi nữa, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hành động xuyên suốt dòng lịch sử và biểu lộ quyền năng trao ban sự sống của Người. Chính trong những luống cày được đào xới do những đau khổ vô số kiểu mà gia đình nhân loại và Dân Chúa chịu đựng, trong khi các ngôn ngữ mới của đức tin và những nẻo đường mới mẻ đang nở rô: không chỉ có khả năng giải thích các biến cố theo quan điểm thần học, mà còn tìm ra các lý do trong những thử thách để tái lập con đường sự sống Ki-tô giáo và Giáo hội. Quả là lý do cho niềm hy vọng lớn lao khi hơn một số lượng Giáo hội đã khởi đầu ít nhiều cuộc họp và diễn trình tham khảo quy cũ với Dân Chúa. Nơi nào được đánh dấu bởi phong cách hiệp hành, thì cảm thức Giáo hội đều triển nở và tinh thần tham gia của mọi người mang lại sự thúc đẩy mới cho đời sống Giáo hội. Khát khao của giới trẻ muốn trở thành những nhân vật chủ đạo trong Giáo hội, cũng như yêu cầu đánh giá cao nữ giới và dành nhiều không gian để họ tham gia vào sứ mạng của Giáo hội, từng được các Đại hội Thượng Hội đồng năm 2018 và 2019 bật đèn xanh và xác nhận. Gần đây, sứ vụ giáo dân dành cho Giáo lý viên được thiết lập và việc mở rộng cho nữ giới gia nhập các thừa tác vụ Đọc sách và Giúp lễ cũng đi theo phương hướng này.
8. Chúng ta không thể bỏ qua những điều kiện đa dạng của các cộng đoàn Ki-tô giáo đang sinh sống tại khu vực vùng miền khác nhau trên toàn thế giới. Song song với những quốc gia nơi Giáo hội chiếm phần lớn dân số và là điểm tham chiếu văn hóa cho toàn xã hội, thì ở nhiều quốc gia khác, người Công Giáo chỉ là thiểu số; tại một số nước này, người Công Giáo, cùng với những Ki-tô hữu khác, phải trải qua các hình thức bách hại cấm cách, bao gồm cả tình trạng rất ư bạo lực, và thường xuyên phải chết vì đạo. Một mặt, nếu não trạng thế tục hóa có xu hướng trục xuất tôn giáo ra khỏi các nơi công cộng, thì mặt khác, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, vốn không tôn trọng quyền tự do của người khác, lại đang nuôi dưỡng các hình thức bất khoan dung và bạo lực; các hình thức này cũng được phản ảnh trong cộng đoàn Ki-tô giáo và trong mối liên hệ với xã hội. Ki-tô hữu thường áp dụng những thái độ tương tự, thậm chí gây chia rẽ và chống đối, ngay cả trong Giáo hội. Nơi Giáo hội và giữa các mối liên hệ của Giáo hội với xã hội, cần phải xem xét các tiếng vọng dội lại của những rạn nứt bởi lý do sắc tộc, chủng tộc, đẳng cấp, hay các hình thức phân tầng giai cấp xã hội khác, hoặc bạo lực văn hóa và cơ cấu đang diễn ra trong xã hội. Những trạng huống trên tác động sâu xa đến ý nghĩa của lối biểu đạt “cùng nhau gieo bước hành trình” và chi phối các khả năng cụ thể của hành động này.
9. Trong bối cảnh đó, tính hiệp hành biểu trưng con đường chính yếu cho Giáo hội, vốn được mời gọi canh tân chính mình dưới tác động của Chúa Thánh Thần và bằng cách chú tâm lắng nghe Lời Chúa. Khả năng hình dung một tương lai khác cho Giáo hội và các định chế của Giáo hội phù hợp với sứ mạng mà Giáo hội đã lãnh nhận, tùy thuộc phần lớn vào quyết định khởi xướng những diễn trình lắng nghe, đối thoại và biện phân cộng đoàn, trong đó mỗi người và mọi người đều có thể tham gia và đóng góp. Đồng thời, quyết định “cùng nhau gieo bước hành trình” là một dấu chỉ mang chiều kích ngôn sứ cho cả gia đình nhân loại, vốn cần một dự án chung có khả năng theo đuổi thiện ích của hết thảy mọi người. Một Giáo hội có khả năng hiệp thông và chan hoà trong tình huynh đệ, tham gia và phụ đới, trung tín với điều mình công bố, sẽ có thể đứng bên cạnh những người nghèo, những ai hèn mọn nhất và nói lên nỗi lòng cho họ. Để “cùng nhau gieo bước hành trình”, chúng ta cần trao phó bản thân mình cho Chúa Thánh Thần giáo dục, hướng tới một nhận thức hiệp hành đích thật, với lòng can đảm và tự do bước vào diễn trình hoán cải không thể thiếu cho việc “cải tổ liên lỉ mà bao lâu Giáo Hội còn là một định chế của con người, thì [Giáo hội] luôn luôn cần đến” (UR, số 6; x. EG, số 26).
II. Một Giáo hội Hiệp hành theo Hiến chế
10. “Quả thật, chính con đường hiệp hành mà Thiên Chúa mong đợi ở Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba. Theo một nghĩa nào đó, điều Chúa yêu cầu chúng ta đã tồn tại trong chính hạn từ ‘synod’ [thượng hội đồng]” [8], vốn là “một từ ngữ cổ xưa và được chân quý trong Truyền thống Giáo hội, mà ý nghĩa của nó dựa trên những chủ đề sâu xa nhất của mầu nhiệm Mạc khải” [9]. Chính “Chúa Giê-su, Đấng tự giới thiệu Người là ‘con đường, là sự thật và là sự sống '(Ga 14, 6),” và “Ki-tô hữu như các môn đệ của Người, ban đầu được gọi là ‘những người theo Đạo’ (x. Cv 9, 2; 19, 9. 23; 22, 4; 24, 14. 22)” [10]. Theo chiều kích này, tính hiệp hành vượt trội hơn cả việc cử hành các cuộc hội nghị chung và đại hội Giám mục, hay một vấn đề quản trị nội bộ đơn giản trong Giáo hội; nó là “phương thức sống và hành động chuyên biệt của Giáo hội, Dân Chúa, được tỏ lộ và mang lại bản thể cho sự hiện hữu Giáo hội như tình hiệp thông trong khi tất cả mọi thành viên của Giáo hội cùng nhau gieo bước hành trình, quy tụ trong các phiên họp và tích cực dự phần vào sứ mạng rao truyền Tin Mừng của Giáo Hội” [11]. Do đó, những trục chính của Giáo hội hiệp hành được đan xen kết nối lại, mà tiêu đề của Thượng hội đồng đã đề ra: hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Ở chương này, chúng ta sẽ minh họa ngắn gọn một số tài liệu tham khảo thần học căn bản dựa trên quan điểm này.
11. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, “cùng nhau gieo bước hành trình” — nghĩa là thực hành tính hiệp hành — một cách thức bình thường mà Giáo hội được hiểu như “Đoàn dân hợp nhất trong sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” [ 12] luôn hành động. Đối với những kẻ gây chia rẽ trong thân thể Giáo hội, các Giáo phụ đối kháng với tính hiệp thông của các Giáo hội rải rác trên khắp thế giới, được Thánh Âu-gus-ti-nô mô tả như thể “concordissima fidei conspiratio” [13], nghĩa là sự ưng thuận hòa điệu trong đức tin của mọi người đã chịu phép Thanh tẩy. Đây là các gốc rễ của việc phát triển rộng rãi một tập quán hiệp hành trên mọi bình diện của đời sống Giáo hội — địa phương, giáo tỉnh và hoàn vũ — từng đạt đến biểu hiện cao nhất nơi Công đồng Chung. Trong tầm nhìn mang tính Giáo hội này, vốn được gợi hứng nhờ bởi nguyên lý tham gia của mọi người vào đời sống Giáo hội, Thánh Gio-an Kim Khẩu đã có thể quả quyết rằng: “Giáo hội và Thượng hội đồng cùng nghĩa với nhau” [14]. Ngay cả trong thiên niên kỷ thứ hai, khi Giáo hội nhấn mạnh hơn đến chức năng phẩm trật, thì cách thức tiến hành này vẫn không chấm dứt: nếu cùng với việc cử hành các công đồng chung, việc cử hành các thượng hội đồng cấp giáo phận và giáo tỉnh đã được chứng thực rõ ràng, thì khi cần phải xác định các chân lý về tín lý, những vị Giáo hoàng đều muốn tham vấn ý kiến của chư huynh Giám mục, ngõ hầu nhận biết đức tin của toàn thể Giáo hội, như thế đã nại tới quyền hạn cảm thức đức tin [sensus fidei] của toàn thể Dân Chúa, vốn “không thể sai lầm” ‘trong khi tin’ [in credendo]” (EG, số 119).
12. Công đồng Va-ti-can II đã bám chặt vào tính sống động của Thánh truyền. Nó nhấn mạnh rằng: “Tuy nhiên, Thiên Chúa không biến con người nên thánh và cứu rỗi họ đơn thuần chỉ là các cá nhân chẳng có chút tương quan hay liên kết gì giữa họ. Đúng hơn, điều khiến Người vui sướng là quy tụ mọi người lại với nhau như một dân tộc biết nhìn nhận Người trong chân lý và phụng sự Người trong sự thánh thiện" (LG, số 9). Các thành viên Dân Chúa được hợp nhất với nhau nhờ Bí tích Thánh tẩy, và “nếu theo ý muốn của Chúa Ki-tô, một số được làm thầy dạy, mục tử và thừa tác phân phát các mầu nhiệm thay cho những người khác, nhưng tất cả đều chia sẻ sự bình đẳng thực sự về phẩm giá và hoạt động chung vì mọi tín hữu để xây dựng Thân thể Chúa Ki-tô ”(LG, số 32). Do đó, tất cả những ai được chịu phép Rửa tội, các tham dự viên thông phần vào sứ vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Ki-tô bằng cách “thực thi tính đa dạng và phong phú có trật tự của các đặc sủng, ơn gọi và thừa tác vụ của họ,” [15] đều là những chủ thể tích cực của việc rao truyền Tin Mừng, cả trong tư cách cá nhân lẫn vai trò của toàn thể Dân Chúa.
13. Công Đồng nhấn mạnh: Nhờ việc đón nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần khi chịu phép Thanh tẩy, mà toàn bộ các Tín hữu “không thể sai lầm trong các vấn đề niềm tin” ra sao. Họ biểu lộ sở hữu đặc biệt này qua việc biện phân siêu nhiên của toàn thể Dân Chúa trong nhiều vấn đề đức tin khi ‘theo trình tự từ các Giám mục xuống tới người tín hữu cuối cùng’, họ đều tỏ lộ tính đồng thuận phổ quát trong vô số vấn đề đức tin và luân lý” (LG, số 12). Chúa Thánh Thần chính là người hướng dẫn tín hữu “đến với mọi chân lý” (Ga 16, 13). Nhờ tác động của Thần Khí mà “truyền thống này phát xuất từ các Tông đồ tiến triển trong Giáo hội”, ngõ hầu Dân Chúa có thể lớn lên “trong sự hiểu biết các thực tại và lời lẽ đã được lưu truyền. Điều này diễn ra qua việc chiêm niệm và học hỏi của các tín hữu; họ hằng ghi nhớ những điều này trong lòng (x. Lc 2, 19. 51) nhờ sự hiểu biết thấu đáo các thực tại thiêng liêng mà họ được trải nghiệm, và qua lời giảng dạy của những vị kế nhiệm giám mục, đã lãnh nhận món quà chân lý vững chắc” (DV, số 8). Thật vậy, Đoàn dân này được các vị Chủ chăn tập hợp lại với nhau, gắn bó với kho tàng thiêng liêng của Lời Chúa, vốn được trao phó cho Giáo hội, nhẫn nại liên lỉ theo giáo huấn của các Tông đồ, trong tình hiệp thông huynh đệ, trong việc bẻ bánh và cầu nguyện, “để việc giữ gìn, thực hành và tuyên xưng di sản đức tin trở thành một nỗ lực chung của các Giám mục và các Tín hữu” (DV, số 10).
14. Được Thiên Chúa thiết lập như “những người bảo vệ, giải thích và nhân chứng đích thực cho đức tin của toàn thể Giáo Hội” [16], các vị Mục tử không nên e ngại lắng nghe Đoàn chiên được giao phó cho mình. Việc tham khảo ý kiến dân Chúa không bao hàm việc tiếp nhận vào Giáo hội các động lực của nền dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số, vì chưng, trên cơ sở tham gia vào mọi diễn trình hiệp hành, có một niềm đam mê chung đối với sứ vụ chung là loan báo Tin Mừng, chứ chẳng phải đại diện cho các lợi ích xung đột. Nói cách khác, đây là một diễn trình mang tính giáo hội chỉ có thể diễn ra ở “trọng tâm của cộng đoàn mang cấu trúc phẩm trật” [17]. Chính trong tình gắn kết hữu hiệu giữa cảm thức đức tin của Dân Chúa với sứ vụ huấn giáo của các Mục tử, mà sự đồng tâm nhất trí của toàn thể Giáo hội trong cùng một đức tin được nhận ra. Mọi diễn trình hiệp hành, trong đó các Giám mục được mời gọi phân định những gì Chúa Thánh Thần đang nói với Giáo hội, không phải từ chính họ mà bằng cách lắng nghe Dân Chúa, vốn “cũng được dự phần vào sứ vụ ngôn sứ của Chúa Ki-tô” (LG, số 12), đều là một hình thức hiển nhiên của việc “cùng nhau gieo bước hành trình” làm cho Giáo hội triển nở. Thánh Bê-nê-đíc-tô nhấn mạnh: “Chúa thường mạc khải đường lối khôn ngoan nhất cần phải tuân theo” [18] cho những người không nắm giữ các vị trí quan trọng trong cộng đoàn (trong trường hợp đó là người trẻ nhất); vì vậy, các Giám mục nên quan tâm đến việc tiếp cận với tất cả mọi người, để trong lúc triển khai chặng đường hiệp hành một cách quy cũ, thì điều mà Thánh Tông đồ Phao-lô đề xướng cho các cộng đoàn có thể được nhận biết: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi điều; điều gì tốt thì giữ” (1 Tx 5, 19-21).
15. Ý nghĩa của cuộc hành trình mà tất cả chúng ta được mời gọi, trên hết là một chặng đường khám phá ra diện mạo và dạng thức của Giáo hội hiệp hành, mà trong đó “ai nấy đều có điều gì đó để học hỏi. Thành phần giáo dân, Giám mục đoàn, Giám mục thành Rô-ma: mọi người lắng nghe nhau, và tất cả lắng nghe Chúa Thánh Thần, ‘Thần Khí sự thật’ (Ga 14, 17), để biết Người ‘nói gì với các Hội Thánh’ (Kh 2, 7)” [19]. Giám mục thành Rô-ma, với vai trò như thể nguyên lý và nền tảng của tình hợp nhất Giáo hội, yêu cầu hết thảy các Giám mục và tất cả Giáo hội địa phương, mà trong đó và từ đó, Giáo Hội Công Giáo duy nhất hiện hữu (x. LG, số 23) tự tin và can đảm bước vào con đường hiệp hành. Trong “việc cùng nhau gieo bước hành trình” này, chúng ta khẩn xin Chúa Thánh Thần giúp ta khám phá tinh thần hiệp thông, vốn liên kết với nhau trong sự hợp nhất phong nhiêu đầy tràn ân sủng, đặc sủng và thừa tác vụ, vì sứ mạng ra sao: một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội “tiến bước”, một Giáo hội truyền giáo “luôn rộng mở cánh cửa” (EG, số 46). Điều này bao gồm ơn gọi đào sâu mối tương quan với các Giáo hội và cộng đồng Ki-tô giáo khác, mà chúng ta liên hệ với nhau nhờ cùng chịu một Phép Rửa tội. Khi ấy, viễn ảnh “cùng nhau gieo bước hành trình” thậm chí còn rộng lớn hơn và bao trùm toàn thể nhân loại, mà với họ, chúng ta chia sẻ “niềm vui và hy vọng, đau buồn và lo lắng” (GS, số 1). Giáo hội hiệp hành là một dấu chỉ mang tính ngôn sứ, tiên vàn cho cộng đồng các quốc gia không có khả năng đề xuất một dự án chung, qua đó theo đuổi thiện ích cho mọi người: ngày nay, đối với Giáo hội, việc thực hành tính hiệp hành là cách thức rõ rệt nhất để trở thành “nhiệm tích cứu rỗi phổ quát” (LG, số 48), “một dấu chỉ và khí cụ của tình hiệp nhất mật thiết với Thiên Chúa và sự hợp nhất của toàn thể nhân loại” (LG, số 1).
III. Lắng nghe Kinh thánh
16. Thần Khí Thiên Chúa, Đấng soi sáng và làm sống động cuộc “hành trình cùng nhau” này của các Giáo Hội, cũng chính là Thần Khí hoạt động trong sứ vụ của Đức Giê-su, đã được hứa ban cho các Tông đồ và vô vàn thế hệ môn đệ biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Như lời Người hứa, Thần Khí không tự giới hạn mình xác nhận tính liên tục của Tin Mừng Chúa Giê-su, nhưng sẽ chiếu tỏa những thẳm sâu chẳng hề cũ kỹ nơi mầu nhiệm Mặc khải của Người và linh hứng các quyết định cần kíp, hầu duy trì hành trình Giáo hội (x. Ga 14, 25-26; 15, 26-27; 16, 1-15). Vì vậy, thật thích đáng khi chúng ta gieo bước hành trình xây dựng một Giáo hội hiệp hành, vốn được linh hứng bởi hai “hình ảnh” trong Kinh thánh. Một hình ảnh xuất hiện biểu trưng “khung cảnh cộng đoàn” liên lỉ cùng nhau sánh bước trên cuộc hành trình loan báo Tin Mừng; còn hình ảnh kia đề cập tới biến cố cảm nghiệm Chúa Thánh Thần, mà trong đó, Thánh Phê-rô và cộng đoàn tiên khởi nhận ra nguy cơ áp đặt các giới hạn phi lý trong việc chia sẻ đức tin. Kinh nghiệm hiệp hành trên chặng đường cùng nhau tiến bước, theo chân Chúa và vâng phục Chúa Thánh Thần, sẽ có thể lãnh nhận nguồn linh hứng quyết định từ việc suy gẫm hai đặc điểm này của mặc khải.
Đức Giê-su, Đám đông dân chúng, Các Tông đồ
17. Nơi cấu trúc nền tảng của nó, khung cảnh nguyên thủy xuất hiện như thể hằng số của cách thức, mà trong đó Đức Giê-su tỏ mình ra xuyên suốt Tin Mừng, khi Người loan báo Nước Thiên Chúa đang đến gần. Xét theo bản thể, ba tác nhân (thêm một) có liên quan. Lẽ dĩ nhiên, người đầu tiên là Đức Giê-su, nhân vật chủ đạo tuyệt đối, Đấng đưa ra sáng kiến, gieo rắc lời nói và dấu hiệu về Nước Trời gần đến mà không “thiên vị người nào” (x.Cv 10, 34). Bằng nhiều cách khác nhau, Đức Giê-su đặc biệt chú ý tới những người bị “tách biệt” khỏi Thiên Chúa và những người ai bị cộng đồng “bỏ rơi” (người tội lỗi và nghèo khó, theo ngôn ngữ Tin Mừng). Qua lời nói và hành động của mình, Người mang lại sự giải thoát khỏi sự dữ và hoán cải thành niềm trông cậy, nhân danh Thiên Chúa Cha và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngay trong tính đa dạng của các lời mời gọi của Chúa, những lời đáp trả dễ lĩnh hội của họ, thì đặc điểm chung là đức tin luôn luôn xuất hiện như thể trân quý con người: lời cầu xin của họ được lắng nghe, sự gian nan khốn khó của họ được trợ giúp, lòng sẵn sàng của họ được đánh giá cao, phẩm giá của họ được quả quyết nhờ Thiên Chúa ghé trông và toàn thể cộng đồng công nhận trở lại.
18. Trên thực tế, công cuộc truyền giảng Tin Mừng và sứ điệp cứu độ sẽ chẳng thể nào hiểu được nếu Đức Giê-su không liên tục cởi mở đối với lượng thính giả đông đảo tối ưu, mà các sách Tin Mừng đề cập như thể đám đông dân chúng, tức là, tất cả những ai bước theo Người suốt chặng đường, thậm chí đôi lúc theo Người với hy vọng được dấu lạ và lời cứu rỗi nữa: đây là tác nhân thứ hai trong khung cảnh Mặc Khải. Việc loan báo Tin Mừng không chỉ dành cho một ít người được soi sáng hoặc được chọn. Vì chưng, đối tượng mà Đức Giê-su đàm thoại vốn dĩ là “những người” có cuộc sống tầm thường, là “hết thảy mọi người” có điều kiện thân phận con người, mà Người trực diện đặt để họ tiếp xúc với ơn thánh và ơn gọi cứu rỗi. Bằng cách nào đó gây ngạc nhiên và đôi khi khiến các nhân chứng bối rối, Đức Giê-su chấp nhận như người đàm thoại với tất cả những ai xuất hiện từ đám đông dân chúng: Người lắng nghe lời phản hồi đầy xúc động của một bà miền Ca-na-an (x. Mt 15, 21-28) vốn không chấp nhận bị loại ra khỏi vần xoay ơn lành mà Người mang đến; Người cho phép bản thân chuyện trò với người phụ nữ Sa-ma-ri-a (x. Ga 4, 1-42), bất chấp hoàn cảnh của bà bị coi là xấu xa về mặt xã hội và tôn giáo; Người khơi dậy hành vi đức tin tự do và đầy lòng biết ơn của anh chàng khiếm thị bẩm sinh (x. Ga 9), người mà tôn giáo chính thức đã gạt bỏ ra ngoài phạm vi ân sủng.
19. Còn một số thì bước theo Đức Giê-su cách minh nhiên hơn, cảm nghiệm được lòng trung tín nơi sứ vụ người môn đệ, trong khi kẻ khác được mời gọi trở về cuộc sống bình thường của họ: nhưng tất cả đều làm chứng cho sức mạnh đức tin đã cứu vớt họ (x. Mt 15, 28). Trong số những người đi theo Đức Giê-su, hình tượng các tông đồ mà chính Người kêu gọi ngay từ đầu, sau khi giao cho họ trách vụ làm trung gian đầy thẩm quyền cho mối liên hệ giữa đám đông dân chúng với mầu nhiệm Mặc Khải và với biến cố Nước Thiên Chúa đang đến gần, thì trở nên nổi bật rõ rệt. Sự việc tác nhân thứ ba nhập cuộc xảy ra chẳng phải nhờ chữa trị hay hoán cải, mà vì nó trùng hợp ngẫu nhiên với lời mời gọi của Đức Giê-su. Việc chọn lựa các tông đồ chẳng phải là đặc ân của một vị thế quyền bính độc quyền và tách biệt, nhưng là ân sủng của thừa tác vụ chúc lành và hiệp thông không loại trừ. Nhờ ơn phúc Thần Khí của Chúa Phục Sinh, họ canh giữ vị thế của Đức Giê-su, mà không thay thế Người: không đặt những gì gạn lọc trước nhan Người, nhưng để ai cũng dễ dàng gặp được Người.
20. Đức Giê-su, đám đông đủ mọi thành phần dân chúng, các tông đồ: đây là hình ảnh và là mầu nhiệm phải thường xuyên được chiêm ngắm và khám phá sâu xa để Giáo hội ngày càng trở nên chính mình. Không ai trong ba tác nhân này có thể rời khỏi hiện trường. Nếu Đức Giê-su vắng mặt và người khác thế chỗ, thì Giáo hội sẽ trở thành một khế ước giữa các tông đồ và đám đông dân chúng, mà cuộc đối thoại của họ sẽ kết thúc theo cốt truyện của trò chơi chính trị. Nếu không có các tông đồ, vốn được Đức Giê-su uỷ quyền và Chúa Thánh Thần hướng dẫn, thì mối gắn kết với sự thật Tin Mừng sẽ bị tan vỡ, và đám đông dân chúng, không kể đón nhận hay từ chối Đức Giê-su, vẫn phải đối diện với một huyền thoại hoặc một ý thức hệ về Người. Còn nếu không có đám đông dân chúng, thì mối tương quan của các tông đồ với Đức Giê-su sẽ biến chất thành kiểu dạng thức tôn giáo bè phái và tự quy chiếu vào chính mình; đồng thời công cuộc truyền giảng Tin Mừng, vốn phát xuất từ sự tự tỏ mình ra cách trực tiếp mà Thiên Chúa đích thân ngỏ lời với tất cả mọi người, trong khi trao ban ơn cứu độ của Người, lại mất hết ánh quang.
21. Ngoài ra, còn có một tác nhân “phụ”, kẻ đối lập, người mang vào khung cảnh sự tách biệt đầy ma quái của ba tác nhân kia. Đối diện với viễn ảnh đầy biến động của thập giá, có những môn đệ bỏ đi và đám đông ‘mưa nắng thất thường’. Sự xảo quyệt gây chia rẽ — và do đó, phá huỷ nẻo đường chung — tự biểu lộ cách dửng dưng dưới các hình thức của thực trạng khắc khe trong tôn giáo, của mệnh lệnh luân lý mà tự nó cho thấy đòi hỏi hơn điều Đức Giê-su dạy, và qua hình thức quyến rũ của khôn ngoan chính trị thế gian tự cho mình hữu hiệu hơn sự biện phân các loại trần trí. Để thoát khỏi những hành vi lừa dối của “tác nhân thứ tư”, thì cần phải hoán cải không ngừng. Ở khía cạnh này, biểu tượng tình tiết về viên đại đội trưởng Cor-nê-li-ô (x. Cv 10), là tiền thân của “Công đồng” Giê-ru-sa-lem (x. Cv 15), vốn tạo thành điểm tham chiếu trọng yếu cho một Giáo hội hiệp hành.
Động lực kép của sự hoán cải: Thánh Phê-rô và ông Cor-nê-li-ô (Cv 10)
22. Tình tiết này kể lại, trước hết, việc hoán cải của Cor-nê-li-ô, thậm chí ông còn nhận được một loại truyền tin. Cor-nê-li-ô là dân ngoại, có lẽ là người Rô-ma, một viên bách quản (thuộc sĩ quan cấp thấp) trong đội quân chiếm đóng, chuyên hành nghề liên can tới bạo lực và lạm dụng. Tuy nhiên, ông chuyên tâm cầu nguyện và bố thí, nghĩa là, ông ‘vun xới chăm sóc’ mối tương quan với Thiên Chúa và quan tâm đến người thân cận. Chính trong nhà của ông, thiên thần đã bất ngờ viếng thăm, gọi tên ông, và khuyến khích ông sai phái — động từ của sứ mệnh! — các gia nhân đi Jaf-fa để mời gọi — động từ của ơn gọi! — Phê-rô. Sau đó, trình thuật này trở thành biến cố hoán cải của Thánh Phê-rô, mà vào cùng ngày ấy, ngài thấy một thị kiến, trong đó có tiếng phán ra lệnh cho ngài giết và ăn thịt các động vật, mà một số thuộc loại ô uế. Ngài thưa lại quyết liệt: “Lạy Chúa, không thể được” (Cv 10, 14). Thánh nhân nhận ra chính Chúa đang chuyện trò với ngài, nhưng dứt khoát khước từ, vì mệnh lệnh đó phá hủy các giới răn của Sách Luật Do Thái (Torah), vốn bất khả nhượng đối với bản sắc tôn giáo của chính ngài, và lột tả lối hiểu biết nơi việc tuyển chọn như một khác biệt hàm nghĩa, vốn tách rời và loại trừ đối với các dân tộc khác.
23. Vị tông đồ vẫn vô cùng bối rối, và trong khi ngài còn đang băn khoăn về ý nghĩa của những gì đã xảy ra, thì gia nhân được ông Cor-nê-li-ô sai phái đã đến và Thần Khí chỉ cho thấy họ là sứ giả của ngài. Thánh Phê-rô đáp lời bằng những ngôn từ gợi nhớ đến lời của Đức Giê-su trong Vườn Cây Dầu: “Chính tôi là người các ông đang tìm” (Cv 10, 21). Đây quả là một cuộc hoán cải đích thực và đúng đắn, một biến cố chuyển dịch đau đớn, nhưng sinh hoa kết trái xum xuê nơi hành vi từ bỏ các phạm trù văn hóa và tôn giáo của bản thân: Thánh Phê-rô chấp nhận ăn chung với dân ngoại thức ăn mà ngài luôn coi là đồ cấm, xem nó như một phương thế sinh sống và hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Chính trong cuộc gặp gỡ với con người, chào đón họ, hành trình với họ và bước vào nhà họ, ngài nhận ra ý nghĩa của thị kiến mà đã nhìn thấy: không một ai bất xứng trong đôi mắt Thiên Chúa, và tính khác biệt do lựa chọn thiết lập không hề bao hàm ý thích loại trừ, ngoài việc phục vụ và trở nên chứng tá trên phạm vi phổ quát.
24. Cả ông Cor-nê-li-ô lẫn Thánh Phê-rô đều kêu gọi những người khác tham gia vào hành trình hoán cải đời mình, biến họ trở nên bạn hữu đồng hành trên chặng đường của bản thân. Hoạt động tông đồ chu toàn thánh ý Chúa bằng cách gầy dựng cộng đoàn, phá bỏ các rào cản và cổ vũ gặp gỡ. Lời nói đóng vai trò trọng tâm trong cuộc gặp giữa hai nhân vật chủ đạo. Ông Cor-nê-li-ô khởi đầu với cách chia sẻ kinh nghiệm của mình. Còn Thánh Phê-rô lắng nghe rồi nói chuyện với ông, đồng thời thuật lại điều gì đã xảy ra với ngài, cũng như làm chứng cho cảm nghiệm về Thiên Chúa gần gũi chan hoà, Đấng ra đi gặp riêng mỗi người để giải thoát họ khỏi những gì khiến họ trở thành tù nhân của sự dữ và hạ nhục nhân tính (x. Cv 10, 38). Dạng thức thông truyền này tương tự như cách Thánh Phê-rô sẽ áp dụng tại Giê-ru-sa-lem khi các tín đồ đã chịu phép cắt bì chỉ trích và buộc tội ngài đã phá vỡ bộ quy tắc truyền thống, vốn được họ hết sức lưu ý, trong khi xem thường ơn Chúa Thánh Thần tuôn đổ dồi dào: “Ông đã vào nhà những kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ!” (Cv 11, 3). Tại thời điểm xung đột ấy, Thánh Phê-rô trình thuật những gì đã xảy ra với ngài và phản ứng hoang mang, vô tri cũng như sự kháng cự của ngài. Chắc hẳn điều này sẽ giúp những người đàm thoại với ngài, có lẽ ban đầu hung hăng và khó tính, nhưng chịu lắng nghe và chấp nhận sự việc đã xảy ra. Kinh thánh sẽ trợ giúp giải thích ý nghĩa, giống như đã làm tại “Công đồng” Giê-ru-sa-lem, trong diễn trình biện phân bao hàm cả biến cố cùng nhau lắng nghe Chúa Thánh Thần.
IV. Tính hiệp hành trong hành động: Những nẻo đường hội kiến Dân Chúa
25. Được Lời Chúa soi dẫn và vững chắc trên nền tảng Thánh Truyền, chặng đường hiệp hành bắt nguồn từ đời sống cụ thể của đoàn Dân Chúa. Thật vậy, nó trình bày một đặc thù, mà cũng tạo ra nguồn lực phi thường: đối tượng của nó — tính hiệp hành — là phương pháp. Nói cách khác, nó tạo thành một loại địa điểm gầy dựng hoặc trải nghiệm thí điểm giúp chúng ta có thể lập tức bắt đầu gặt hái các thành quả của động lực mà sự hoán cải mang tính hiệp hành tiệm tiến sẽ được giới thiệu trong cộng đoàn Ki-tô giáo. Mặt khác, nó có thể chỉ đề cập đến những kinh nghiệm hiệp hành sống động trên các bình diện khác nhau, với nhiều mức độ thâm hậu khác biệt: những yếu tố quý giá cho diễn trình biện phân theo chiều hướng không ngừng tiến bước nhờ vào sở trường và thành tựu, cũng như các giới hạn và khó khăn. Dĩ nhiên, ở đây, tham chiếu đề cập tới những kinh nghiệm do chặng đường hiệp hành hiện nay gợi lên, nhưng cũng hướng đến mọi cảm nghiệm qua các hình thức của việc “cùng nhau gieo bước hành trình” trong đời sống thường nhật, ngay cả khi hạn từ ‘tính hiệp hành’ chưa được biết tới hay chưa được sử dùng.
Câu hỏi căn bản
26. Dưới đây là bộ câu hỏi căn bản hướng dẫn cuộc hội kiến Dân Chúa này, như đã được đề cập ở phần đầu:
Trong khi loan báo Tin Mừng, một Giáo Hội hiệp hành là Giáo hội “cùng nhau đồng hành”: Ngày nay, việc “cùng nhau đồng hành” này diễn ra như thế nào trong Giáo Hội địa phương? Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta thực hiện những bước gì để trưởng thành trong diễn trình “cùng nhau đồng hành”?
Anh chị em được mời gọi hồi đáp:
a) tự hỏi bản thân về những cảm nghiệm nào trong Giáo hội địa phương mà bộ câu hỏi căn bản gợi nhớ;
b) đọc lại những kinh nghiệm này ở tầm mức thâm sâu hơn: Chúng đã gợi lên niềm vui nào? Chúng đã gặp những khó khăn và trở ngại nào? Chúng đã tỏ lộ những vết thương nào? Chúng đã gợi ra các tư tưởng sâu sắc nào?
c) thu thập hoa trái sẻ chia: trong những cảm nghiệm này, tiếng nói của Chúa Thánh Thần vang vọng chốn nào? Người đang yêu cầu chúng ta điều gì? Đâu là những điểm cần xác nhận, triển vọng cần thay đổi, các bước cần thực hiện? Nơi nào mà chúng ta ghi nhận được một sự đồng thuận? Đâu là những nẻo đường đang mở ra cho Giáo hội địa phương?
Các Lối diễn tả khác nhau về tính Hiệp hành
27. Khi cầu nguyện, suy tư và chia sẻ dựa trên gợi ý của bộ câu hỏi căn bản, nên ghi nhớ ba bình diện, mà trong đó tính hiệp hành được thông đạt như một “chiều kích cấu thành Giáo hội” [20].
* Bình diện phong cách bình thường mà Giáo hội sống và làm việc hàng ngày, lột tả bản chất của Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa cùng nhau gieo bước hành trình và quy tụ trong các cộng đoàn, vốn được Đức Giê-su triệu tập trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Phong cách này được thể hiện qua việc “cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể, tình hiệp thông huynh đệ, đồng trách nhiệm và tinh thần tham gia của toàn thể Dân Chúa vào đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, trên mọi bình diện, và phân biệt giữa các thừa tác vụ với vai trò khác nhau” [21];
* Bình diện cơ cấu và diễn trình của Giáo hội, cũng được xác định theo quan điểm thần học và giáo luật, mà trong đó bản chất hiệp hành của Giáo hội được diễn tả theo hướng định chế trên các bình diện địa phương, khu vực và hoàn vũ;
* Bình diện diễn trình và biến cố hiệp hành, mà trong đó Giáo hội được thẩm quyền có năng quyền triệu tập theo những thủ tục chuyên biệt, vốn được xác định bởi kỷ luật của Giáo hội.
Mặc dù khác nhau theo quan điểm luận lý, nhưng ba bình diện này đề cập đến nhau và phải được liên kết với nhau một cách nhất quán, trừ phi một chứng từ đối ngược sẽ được truyền đi và uy tín của Giáo hội sẽ bị suy giảm. Thật vậy, nếu không được hiện thân trong các cơ cấu và diễn trình, thì phong cách hiệp hành dễ dàng biến chất từ bình diện ý hướng và ước muốn thành bình diện văn chương hùng biện, trong lúc các diễn trình và biến cố trở nên thủ tục trống rỗng, nếu không có một phong cách thích hợp nào làm chúng sinh động.
28. Hơn nữa, khi đọc lại kinh nghiệm, cần ghi nhớ rằng: “cùng nhau gieo bước hành trình” có thể được hiểu theo hai viễn cảnh khác nhau, vốn có mối liên hệ qua lại chặt chẽ. Viễn cảnh thứ nhất xem xét đời sống nội tâm của các Giáo hội địa phương, dựa trên những mối tương quan giữa các bộ phận cấu thành các Giáo Hội này (tiên vàn giữa Tín hữu và các Mục tử của họ, cũng qua các cơ quan tham gia do kỷ luật giáo luật quy định, bao gồm cả thượng hội đồng giáo phận) với những cộng đoàn được phân chia (đặc biệt là các giáo xứ). Để rồi xem xét mối liên hệ giữa các Giám mục và Giám mục thành Rô-ma, cũng thông qua các cơ quan trung gian của tính hiệp hành (Thượng Hội đồng Giám mục của những Giáo hội Thượng phụ và Tổng giáo phận chính, Công đồng Giáo phẩm Đông phương và Hội đồng Giáo phẩm các Giáo hội tự trị [sui iuris], và Hội đồng Giám mục khắp nơi, với những biểu thức quốc gia, quốc tế và lục địa của họ). Sau đó, được mở rộng ra nhiều cách thức, mà trong đó mỗi Giáo hội địa phương tích hợp trong mình sự đóng góp các hình thức khác nhau của đời sống đan tu, tu trì và thánh hiến, của các hiệp hội và phong trào giáo dân, của các định chế giáo hội và giáo hội học thuộc nhiều dạng khác nhau (trường học, bệnh viện, đại học, các quỹ hội, các tổ chức bác ái và hỗ trợ, v.v.). Cuối cùng, viễn cảnh này cũng bao hàm những mối liên hệ và sáng kiến chung với toàn thể anh chị em thuộc vô số giáo phái Ki-tô giáo khác, mà chúng ta vốn chia sẻ ơn phúc cùng một Phép Thánh tẩy với họ.
29. Viễn cảnh thứ hai cân nhắc Dân Chúa cùng nhau gieo bước hành trình ra sao với toàn thể gia đình nhân loại. Vậy, nhãn quan của chúng ta sẽ tập chú vào tình trạng các mối liên hệ, đối thoại và những sáng kiến chung khả hữu với tín nhân của các tôn giáo khác, với những ai xa rời đức tin, cũng như với các môi trường và nhóm xã hội chuyên biệt, với vô số định chế của họ (thế giới chính trị, văn hóa, kinh tế, tài chính, lao động, công đoàn và hiệp hội doanh nhân, các tổ chức phi chính phủ và xã hội dân sự, các phong trào quần chúng, các nhóm thiểu số, người nghèo và người bị hắt hủi, v.v.).
Mười chuyên đề cốt lõi cần được khám phá
30. Nhằm giúp làm nổi bật những kinh nghiệm và đóng góp một cách phong phú hơn vào cuộc tham khảo, chúng tôi trình bày dưới đây mười chủ đề cốt lõi, nêu rõ các khía cạnh khác nhau của “tính hiệp hành sống động”. Chúng phải được thích nghi phù hợp với những bối cảnh địa phương khác nhau, và thỉnh thoảng được tích hợp, giải thích, đơn giản hóa và đào sâu, đặc biệt chú ý đến những người gặp khó khăn hơn trong việc tham gia và hồi đáp: Cẩm nang kèm theo Tài liệu Chuẩn bị này cung cấp các công cụ, lộ trình và gợi ý để nhiều bộ câu hỏi khác nhau có thể gợi hứng cụ thể cho những khoảnh khắc cầu nguyện, đào tạo, suy tư và trao đổi.
I. BẠN ĐỒNG HÀNH
Trong Giáo hội và ngoài xã hội, chúng ta sát cánh bên nhau cùng đi trên một con đường. Tại Giáo hội địa phương nơi bạn sinh hoạt, ai là những người “cùng nhau gieo bước hành trình”? Khi nói: “Giáo hội chúng ta”, ai là một phần của nó? Ai đang yêu cầu chúng ta cùng nhau hành trình? Ai là bạn đồng hành trên chặng đường đi, kể cả những ai ngoài chu vi giáo hội? Những người hoặc nhóm nào bị bỏ lại bên lề cách minh nhiên hay trên thực tế?
II. CHÚ TÂM LẮNG NGHE
Lắng nghe là bước đầu tiên, nhưng để làm được điều này, chúng ta cần có một con tim và tâm trí rộng mở, không vướng bận định kiến. Giáo hội địa phương của chúng ta “cần lắng nghe” không? Làm thế nào để thành phần Giáo dân, nhất là giới trẻ và phụ nữ, được lắng nghe? Chúng ta tích hợp đóng góp từ những bậc nam nữ Thánh hiến rao sao? Đâu là chỗ dành cho tiếng nói của các nhóm thiểu số, người bị vứt bỏ và bị loại trừ? Chúng ta nhận dạng được các định kiến và khuôn mẫu cản trở việc lắng nghe của mình chăng? Chúng ta lắng nghe bối cảnh xã hội và văn hóa trong đó chúng ta đang sống thế nào?
III. LÊN TIẾNG
Hết thảy mọi người đều được mời gọi hãy can đảm, đừng ngần ngại nói lên sự thật, tự do và bác ái. Làm thế nào để chúng ta cổ vũ một phong cách truyền đạt tự do và chân chính trong cộng đoàn và các tổ chức của nó, mà không trùng lặp và rơi vào chủ thuyết cơ hội? Và trong tương quan với xã hội mà chúng ta là thành phần? Khi nào và làm thế nào để dám nói lên điều hệ trọng đối với chúng ta? Mối liên kết với hệ thống truyền thông (không chỉ là truyền thông Công Giáo) hoạt động ra sao? Ai nói thay cho cộng đồng Ki-tô giáo, và họ được chọn như thế nào?
IV. CỬ HÀNH
“Đồng hành với nhau” chỉ có thể được diễn ra nếu chúng ta cùng lắng nghe Lời Chúa và tham dự Thánh lễ/cử hành Thánh Thể. Làm thế nào để việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ gợi hứng và điều hướng chúng ta "cùng nhau gieo bước hành trình"? Làm thế nào để chúng gợi hứng cho những quyết định tối quan trọng? Chúng ta cổ vũ sự tham gia tích cực của mọi Tín hữu vào phụng vụ và thi hành phận vụ thánh hóa ra sao? Đâu là chỗ dành cho việc thi hành các thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ?
V. ĐỒNG TRÁCH NHIỆM TRONG SỨ VỤ
Tính hiệp hành nhằm để phục vụ, hiến thân cho sứ mạng của Giáo hội (truyền giáo), mà Mẹ Giáo hội vốn mời gọi tất cả mọi người tham dự. Vì tất cả chúng ta đều là môn đệ truyền giáo, nên mỗi người đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy đều được mời gọi trở nên nhân vật chủ động trong sứ vụ ra sao? Làm thế nào để cộng đoàn hỗ trợ các thành viên của mình dấn thân phục vụ trong xã hội (cam kết dấn thân xã hội và chính trị, nghiên cứu khoa học và giảng dạy, cổ vũ công bình xã hội, bảo vệ nhân quyền và chăm lo cho Ngôi nhà chung, v.v.)? Làm thế nào để giúp đỡ họ thực hiện những cam kết dấn thân này theo luận lý sứ vụ? Việc biện phân về các lựa chọn liên quan đến sứ vụ được thực hiện thế nào và ai tham gia vào đó? Những truyền thống khác nhau vốn tạo nên di sản của nhiều Giáo hội, nhất là các Giáo hội Đông Phương, được hội nhập và thích nghi với phong cách hiệp hành, theo quan điểm chứng nhân Ki-tô giáo hữu hiệu ra sao? Cộng tác hoạt động thế nào tại những lãnh thổ có các Giáo hội tự trị [sui iuris] khác nhau?
VI. ĐỐI THOẠI TRONG GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI
Đối thoại là một chặng đường cần tinh thần nhẫn nại, bao gồm cả sự thinh lặng và chấp nhận gian truân; nhưng đối thoại cũng hướng tới khả năng trao dồi kinh nghiệm thấu hiểu con người và các dân tộc. Đâu là địa điểm và phương thức đối thoại bên trong Giáo hội địa phương? Sự dị biệt về tầm nhìn/viễn kiến, các xung đột, những khó khăn được giải quyết ra sao? Làm thế nào để cổ vũ hợp tác với các Giáo phận lân cận, cùng nhau và giữa các cộng đồng tôn giáo trong khu vực, cùng nhau và giữa các hiệp hội cũng như phong trào giáo dân, v.v.? Những kinh nghiệm nào về đối thoại và cam kết dấn thân chung với các tín đồ của tôn giáo khác và với những ai không có tín ngưỡng? Giáo hội đối thoại và học hỏi ra sao từ những thành phần khác của xã hội: thế giới chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội dân sự, người nghèo…?
VII. VỚI CÁC HỆ PHÁI KI-TÔ GIÁO KHÁC
Diễn trình đối thoại giữa mọi Ki-tô hữu tuyên xưng đức tin cho dù khác nhau chăng nữa, nhưng nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được liên kết với nhau; nên nó giữ một vị trí đặc biệt trong chặng đường hiệp hành. Chúng ta có những mối liên hệ nào với anh chị em của các hệ phái Ki-tô giáo khác? Họ quan tâm đến những lĩnh vực nào? Chúng ta đã rút ra được thành quả nào từ việc “cùng nhau gieo bước hành trình” này? Đâu là các khó khăn?
VIII. THẨM QUYỀN VÀ THAM GIA
Giáo hội mang tính hiệp hành là Giáo hội cùng nhau dấn thân tham gia và cáng đáng trách nhiệm. Làm thế nào để chúng ta nhận diện được các mục tiêu cần theo đuổi, cách thức đạt được chúng và các bước cần thực hiện? Thẩm quyền được thực thi như thế nào trong Giáo hội địa phương nơi chúng ta sinh hoạt? Đâu là những việc làm theo nhóm và đồng trách nhiệm? Các thừa tác viên giáo dân và việc đảm nhận trách nhiệm của Tín hữu được cổ vũ ra sao? Các bộ phận hiệp hành hoạt động như thế nào trên bình diện Giáo hội địa phương? Chúng là một kinh nghiệm đơm hoa kết trái chứ?
IX. BIỆN PHÂN VÀ QUYẾT ĐỊNH
Theo phương cách hiệp hành, mọi quyết định được thực hiện qua quá trình biện phân, mà nó dựa trên sự đồng tâm nhất trí, vốn có được nhờ vào lòng vâng phục Chúa Thánh Thần của cả cộng đoàn. Chúng ta cùng nhau biện phân và đưa ra quyết định bằng những thủ tục và phương pháp nào? Làm thế nào để chúng có thể được cải thiện? Chúng ta cổ vũ việc tham gia vào diễn trình đưa ra quyết định trong các cộng đoàn cơ cấu phẩm trật ra sao? Làm thế nào để chúng ta kết nối giai đoạn tham khảo với giai đoạn thảo luận, diễn trình đưa ra quyết định với thời điểm thăm dò quyết định? Bằng cách nào và phương thế nào mà chúng ta cổ vũ tính minh bạch và trách nhiệm giải trình?
X. TỰ ĐÀO TẠO TRONG DIỄN TRÌNH HIỆP HÀNH
Linh đạo hiệp hành được mệnh danh là nguyên lý giáo dục cho quá trình đào tạo nhân bản và Ki-tô hữu, cho gia đình và tất cả cộng đồng/cộng đoàn. Chúng ta đào tạo con người thế nào, đặc biệt những ai giữ vai trò trách nhiệm trong cộng đoàn Ki-tô hữu, để họ có khả năng “cùng nhau gieo bước hành trình”, lắng nghe nhau và tích cực tham gia đối thoại? Chúng ta cung ứng chương trình đào tạo nào để biện phân và thực thi thẩm quyền? Đâu là các công cụ giúp chúng ta đọc ra những năng động tính của nền văn hóa, mà trong đó chúng ta đang đắm mình và chịu tác động của chúng đối với phong cách Giáo hội chúng ta?
Đóng góp cho cuộc tham khảo
31. Mục đích của giai đoạn đầu trong chặng đường hiệp hành là phát huy một diễn trình tham khảo rộng rãi, nhằm thu thập những kinh nghiệm phong nhiêu về tính hiệp hành sống động, theo nhiều lối trình bày và khía cạnh khác nhau của nó, liên quan đến các Mục tử và Tín hữu tại những Giáo hội địa phương cụ thể trên mọi bình diện khác nhau, nhờ các phương tiện thích hợp nhất tùy theo vô số thực tại địa phương chuyên biệt: quá trình tham khảo, do Giám mục điều phối, được gửi đến “các Linh mục, Phó tế và tín hữu của Giáo xứ họ, lẫn mỗi cá nhân và hiệp hội, mà không bỏ qua việc đóng góp quý giá mà những bậc sống thánh hiến nam nữ có thể trao ban ”(EC, số 7). Quá trình đóng góp của các bộ phận tham gia trong những Giáo hội địa phương đặc thù, nhất là của Hội đồng Linh mục và Hội đồng Mục vụ, từ đó “một Giáo hội hiệp hành [có thể thực sự] bắt đầu thành hình” [22]. Việc đóng góp của các thực thể giáo hội khác cho Tài liệu Chuẩn bị sẽ được gửi đến, cũng có giá trị ngang hàng với những ai mong muốn đóng góp trực tiếp. Sau cùng, điều hệ trọng căn bản là tiếng nói của người nghèo và người bị loại trừ cũng tìm được chỗ đứng của nó, chứ không chỉ là tiếng nói của những ai giữ vai trò hoặc trách nhiệm nào đó trong các Giáo hội địa phương.
32. Bản văn tổng hợp mà mỗi Giáo hội địa phương sẽ khai triển ở cuối công việc lắng nghe và biện phân này sẽ tạo ra góp phần vào cuộc hành trình của Giáo hội hoàn vũ. Để những giai đoạn tiếp theo của chặng đường trở nên dễ dàng và bền vững hơn, thì điều quan trọng là phải cô đọng thành quả của đời sống cầu nguyện và suy tư vào trong mười trang giấy tối đa. Nếu cần trình bày ngữ cảnh và giải thích tốt hơn, thì các bản văn khác có thể được đính kèm để hỗ trợ hoặc tích lập. Chúng ta nên nhớ mục đích của Thượng Hội đồng và kết cuộc của cuộc tham khảo này, không phải để tạo ra những tài liệu, mà là “để ươm trồng bao ước mơ, rút tỉa lời sấm truyền và viễn kiến, cho niềm hy vọng trổ sinh, khơi dậy lòng tin tưởng, băng bó các vết thương, cùng nhau dệt nên những mối tương quan, đánh thức bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và tạo ra phương kế tươi sáng, mà nó sẽ khai lòng mở trí, sưởi ấm con tim, nâng đỡ đôi tay chúng ta” [23].
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ITC Ủy ban Thần học Quốc tế
DV Công đồng Va-ti-can II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum (18 tháng 11 năm 1965)
EC Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Tông hiến Episcopalis communio (ngày 15 tháng 9 năm 2018)
EG Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii gaudium (ngày 24 tháng 11 năm 2013)
FT Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Thông điệp Fratelli tutti (ngày 3 tháng 10 năm 2020)
GS Công đồng Va-ti-can II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes (ngày 7 tháng 12 năm 1965)
LG Công đồng Va-ti-can II, Hiến chế Tín lý Lumen gentium (ngày 21 tháng 11 năm 1964)
LS Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Thông điệp Laudato si’ (ngày 24 tháng 5 năm 2015)
UR Công đồng Va-ti-can II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio (ngày 21 tháng 11 năm 1964)
CHÚ THÍCH
[1] Các giai đoạn của chặng đường hiệp hành được tường trình dưới đây
[2] Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Diễn văn nhân dịp lễ kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục (17 tháng 10 năm 2015).
[3] x. www.synod.va
[4] Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Thư gửi dân Chúa (ngày 20 tháng 8 năm 2018), phần nhập đề.
[5] như trên (nt.), số 2.
[6] nt.
[7] nt.
[8] Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[9] ITC, Tính Hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo hội (ngày 2 tháng 3 năm 2018), số 3.
[10] nt.
[11] nt, số 6.
[12] Thánh Sýp-ri-a-nô, Kinh Lạy Cha, 23.
[13] Thánh Âu-gus-ti-nô, Thư 194, 31.
[14] Thánh Gio-an Kim Khẩu, Chú giải Thánh vịnh 149.
[15] ITC, Tính Hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo hội, số 6.
[16] Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[17] ITC, Tính Hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo hội, số 69.
[18] Thánh Bê-nê-đíc-tô, Sách Luật, 3.3.
[19] Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[20] ITC, Tính Hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo hội, số 70.
[21] nt.
[22] Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[23] Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, Diễn văn Khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục về Giới trẻ (ngày 3 tháng 10 năm 2018).
Chuyển ngữ: Lm. Xuân Hy Vọng
===============
ĐẠI HỘI KHOÁNG THƯỜNG LẦN THỨ 16 CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THẾ GIỚI
“Hướng đến một Hội Thánh mang tính hiệp hành:
Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ”
Bộ câu hỏi này được soạn thảo dựa trên
Tài liệu Chuẩn bị và Cẩm nang cho Thượng Hội Đồng 2023
‘Giáo hội mang tính Hiệp hành’ nghĩa là ‘Giáo hội đồng hành’ trên chặng đường rao truyền Tin Mừng.
Bộ câu hỏi dưới đây nêu ra cách thức rõ ràng mà chúng ta ‘hiệp hành’. Chúng ta có trách nhiệm giải thích, đào sâu và tóm gọn mọi điều đối ứng với bối cảnh của mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Khi ấy, thật hệ trọng cho mỗi người chúng ta phải biết cầu nguyện, suy tư và chia sẻ cùng nhau.
-
Bạn đồng hành/hiệp hành
Trong Giáo hội và xã hội, chúng ta sát cánh bên nhau cùng đi trên một con đường.
-
Tôi/chúng ta đang tiến bước cùng nhau?
-
Tôi/chúng ta phải đồng hành với ai?
-
Khi tiến bước cùng nhau, có ai bị bỏ mặc, bị lãng quên và bị gạt ra bên ngoài?
-
Những ai không thể đồng hành? Vì sao họ không thể đồng hành?
-
Tôi/chúng ta muốn ai đó cùng tiến bước chăng? Để đồng hành với nhau, chúng ta cần làm gì?
-
Chú tâm lắng nghe
Lắng nghe là bước đầu tiên; nhưng để làm được điều này, chúng ta cần có một con tim và tâm trí rộng mở, không vướng bận định kiến.
-
Có lúc chúng ta nghe tiếng Chúa nói qua những lời mà chúng ta chưa tỏ tường. Tôi/chúng ta đang chú tâm lắng nghe ai?
-
Tôi/chúng ta lơ đễnh trong việc lắng nghe không? vd: Chẳng muốn nghe nữ giới, giới trẻ, những ai bé mọn, người hàng xóm, những người có chính kiến khác biệt, người nghèo khổ, những ai bị bỏ rơi bên lề và bị gạt bỏ, di dân, v.v…
-
Tại sao chúng ta không thể nào chú tâm lắng nghe họ?
-
Làm thế nào để chúng ta có thể để ý lắng nghe họ?
-
Tôi/chúng ta cần ai đó lắng nghe tiếng chúng ta?
-
Tôi/chúng ta phải làm sao để ai đó lắng nghe tiếng tôi/chúng ta?
-
Truyền tải những gì bản thân suy nghĩ/suy tư (Lên tiếng)
Hết thảy mọi người đều được mời gọi hãy can đảm, đừng ngần ngại nói lên sự thật, bác ái và tự do.
-
Tôi/chúng ta đang diễn tả đời sống đức tin của bản thân ra ngoài cách rõ ràng? Nếu không diễn tả được, thì lí do là gì?
-
Trong Giáo hội/giáo xứ và xã hội, có cơ hội và nơi truyền tải rõ rệt tinh thần trách nhiệm một cách trực diện với lòng gan dạ không? Nếu không, thì vì sao?
-
Chúng ta đang tận dụng tích cực các phương thế/phương tiện hữu ích cho việc loan truyền Tin Mừng chứ? vd: Ấn phẩm in ấn, sách báo, truyền hình, đài phát thanh, tin nhắn, mạng xã hội, v.v…
-
Nói về công cuộc truyền giáo, chúng ta đóng góp ý kiến gì không?
-
Phụng vụ/Cử hành
“Đồng hành với nhau” chỉ có thể được diễn ra nếu chúng ta cùng nhau lắng nghe Lời Chúa, và tham dự Thánh lễ.
-
Ơn ích từ Thánh lễ và Phụng vụ khơi gợi nguồn linh hứng trong đời sống đạo của tôi/chúng ta thế nào? Nếu chưa cảm nghiệm được điều đó, thì vì sao?
-
Để áp dụng ơn ích đó, chúng ta nghĩ phải làm gì?
-
Chúng ta tham dự/thông phần như thế nào?
-
Tôi/chúng ta cùng nhau cầu nguyện chưa?
-
Khi thực hiện thừa tác Đọc sách Thánh và Giúp lễ, thì cảm nghiệm nào gợi hứng trong tâm hồn chúng ta?
-
Đồng trách nhiệm thực hiện sứ mạng chung (truyền giáo)
‘Đồng hành cùng nhau’/Tính hiêp hành để phục vụ, hiến thân cho sứ mạng của Giáo hội (truyền giáo), mà Mẹ Giáo hội vốn mời gọi tất cả mọi người tham dự.
-
Mọi Ki-tô hữu đều ý thức về sứ mạng truyền giáo của họ chứ?
-
Chúng ta có nỗ lực rao truyền Tin Mừng cho ai chưa? Hoặc chúng ta phải loan truyền Tin Mừng cho những ai?
-
Có khía cạnh nào hoặc trong lĩnh vực nào vốn xem nhẹ sứ mạng truyền giáo chăng?
-
Điều gì ngăn trở/cản trở các tín hữu nỗ lực truyền giáo một cách sống động?
-
Phải chăng chúng ta đang phó mặc công cuộc truyền giảng Tin Mừng cho ai đó, hay cùng nhau thực thi sứ mạng loan truyền Tin Mừng? Làm sao để công cuộc truyền giảng Tin Mừng tiến triển cách hữu hiệu?
-
Bằng loại hình gì, cách thức nào (vd: thông qua công tác phúc lợi xã hội, hoạt động chính trị, nghiên cứu khoa học, giáo dục, cổ vũ công bằng xã hội, bảo vệ nhân quyền, gìn giữ sinh thái môi trường, v.v…) để truyền giảng Tin Mừng, hoặc nỗ lực chuẩn bị rao truyền Tin Mừng?
-
Cộng đoàn Giáo xứ hỗ trợ cách nào cho các tín hữu đang phục vụ xã hội trong mọi lĩnh vực?
-
Đối thoại trong Giáo hội và xã hội
Đối thoại là một chặng đường cần tinh thần nhẫn nại, bao gồm cả sự thinh lặng và chấp nhận gian truân; nhưng đối thoại cũng hướng tới khả năng trao dồi kinh nghiệm thấu hiểu con người và các dân tộc.
-
Chúng ta đang thực hiện đối thoại với những ai có chính kiến khác biệt và có đức tin tôn giáo khác chứ? Chúng ta nỗ lực gắn kết và đối thoại với họ chứ?
-
Trong Giáo xứ chúng ta, loại hình và phương diện nào cho công cuộc đối thoại?
-
Làm thế nào chúng ta đẩy mạnh tinh thần cộng tác với các Giáo phận lân cận, các cộng đoàn dòng tu trong vùng, các đoàn thể và phong trào giáo dân, v.v… ?
-
Trong Giáo hội/giáo xứ và xã hội, chúng ta đặc biệt chú ý đến vấn đề gì không?
-
Đối với các tín nhân của tôn giáo khác, đặc biệt những ai không theo đạo nào, chúng ta có kinh nghiệm cộng tác và đối thoại với họ ra sao?
-
Là Giáo hội/giáo xứ, chúng ta học được gì và đối thoại thế nào với những người làm việc trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội như chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội dân sự, vấn nạn nghèo khổ…?
-
Phong trào Đại kết (Giáo hội hiệp nhất)/Với các hệ phái Ki-tô giáo khác
Diễn trình đối thoại giữa mọi Ki-tô hữu tuyên xưng đức tin cho dù khác nhau chăng nữa, nhưng nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được liên kết với nhau; nên nó giữ một vị trí đặc biệt trong chặng đường hiệp hành.
-
Chúng ta có cùng nhau cầu nguyện, chia sẻ và đồng hành với những Ki-tô hữu không phải Công giáo chăng?
-
Để đồng hành với nhau, chúng ta nghĩ phải làm thế nào?
-
Từ tiến trình đồng hành cùng nhau, chúng ta gặt hái được những hoa quả ra sao?
-
Khi cùng nhau thăng tiến, bước tiếp theo là gì?
-
Thẩm quyền và Tham gia
Giáo hội mang tính hiệp hành là Giáo hội cùng nhau dấn thân tham gia và cáng đáng trách nhiệm.
-
Chúng ta có biết mục tiêu của Giáo phận mình?
-
Để đạt mục tiêu đó, chúng ta đang cộng tác cụ thể ra sao? Chúng ta đang cùng nhau sinh hoạt hướng tới mục tiêu ấy? Thế các sinh hoạt/hoạt động đó là gì?
-
Trong mỗi buổi họp, không chỉ quyết định người đảm trách thực hiện các sinh hoạt giáo xứ, mà còn cùng nhau chia sẻ cách thức thế nào nhằm thực thi sứ mạng truyền giảng Tin Mừng chứ?
-
Tôi có truyền đạt ý kiến của bản thân? Mong muốn mọi người lắng nghe ý kiến của bản thân?
-
Đặc biệt đối với nữ giới khi đảm nhận thừa tác phục vụ và trách vụ, họ được tăng triển ra sao?
-
Các tổ chức hội đoàn cấp Giáo phận (vd: ban hành giáo của mỗi Giáo xứ, Ban điều hành cộng tác cấp Giáo phận, Cuộc họp Linh mục, v.v…) được điều hành như thể cùng nhau ‘đồng hành’ không?
-
Để Giáo hội/giáo xứ “cùng nhau đồng hành”, mong muốn người lãnh đạo/dẫn dắt và tham gia như thế nào?
-
Ở cấp Giáo phận, bạn đã từng được trải nghiệm/cảm nghiệm “cùng nhau đồng hành” rồi chứ?
-
Biện phân và Quyết định
Theo phương cách hiệp hành, mọi quyết định được thực hiện qua quá trình phân định, mà nó dựa trên sự đồng tâm nhất trí, vốn có được nhờ vào lòng vâng phục Chúa Thánh Thần của cả cộng đoàn.
-
Bắt đầu mỗi cuộc họp, chúng ta luôn cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, sau đó tiến hành theo Lời Chúa và đưa ra mọi sinh hoạt/hoạt động của giáo xứ?
-
Chúng ta sinh hoạt giáo xứ với ý thức rằng Chúa luôn hiện diện với ta, và Chúa Thánh Thần hằng hoạt động với chúng ta chứ?
-
Chúng ta tham gia vào tiến trình đưa ra quyết định thế nào dựa trên hàng phẩm trật của Giáo hội (Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, nam nữ Tu sĩ, Giáo dân)?
-
Phương pháp quyết định của chúng ta khởi sự từ việc chú tâm lắng nghe toàn thể cộng đoàn Dân Chúa chứ?
-
Thăm dò ý kiến và đưa ra quyết định có mối liên hệ ra sao? Mối liên hệ này được thực hiện như thế nào?
-
Để đẩy mạnh trách vụ giải trình và minh bạch về những việc hệ trọng, chúng ta áp dụng phương thức và tiến trình ra sao?
-
Để cùng nhau phân định tâm linh, chúng ta phải làm thế nào?
-
Tự đào tạo trong diễn trình hiệp hành
Linh đạo hiệp hành được mệnh danh là nguyên lý giáo dục cho quá trình đào tạo nhân bản và Ki-tô hữu, cho gia đình và tất cả cộng đồng/cộng đoàn.
-
Đặt vào bối cảnh truyền giáo, phụng vụ, các vấn đề cũng như những hoạt động Giáo hội/sinh hoạt giáo xứ, chúng ta phải làm gì để ý thức và thực hiện diễn trình “cùng nhau đồng hành”?
-
Để đẩy mạnh việc dùng quyền hành theo phương cách “cùng nhau đồng hành” và được thúc đẩy nhờ ơn phân định, thì quá trình đào luyện phải được tiến hành ra sao?
Chuyển ngữ từ bộ câu hỏi tiếng Nhật do HĐGM Nhật Bản đề xướng soạn thảo:
Lm. Micae Nguyễn Xuân Vinh (Lm. Xuân Hy Vọng), Đặc trách UB THĐGMTG thuộc Gp. Naha.