Đạo binh một người
- T7, 07/12/2024 - 16:29
- Lm Phạm Quốc Hưng
ĐẠO BINH MỘT NGƯỜI
Lm Phạm Quốc Hưng, CSsR.
Ngày xưa còn bé, mỗi buổi sáng khi đến nhà thờ giáo xứ để dự Thánh Lễ dành cho thiếu nhi, tôi thường được nghe các ông bà hội viên Legio Maria ở lại sau Thánh Lễ thứ nhất đọc kinh Catena với lời dạo như sau: “Kìa Bà nào đang tiến lên như rạng đông, đẹp như mặt trăng, rực rỡ như mặt trời, oai hùng như đạo binh xếp hàng vào trận?”
Mẹ Maria đã được ví như một đạo binh oai hùng để cùng với Chúa Kitô chiến thắng ma quỷ và các thế lực tội lỗi. Như thế, các tôi trung, con thảo và chiến sĩ của Mẹ cũng phải có nét oai hùng “như đạo binh xếp hàng vào trận” như Mẹ vậy.
Đó là điều tôi đã nhận thấy nơi Cha John Anthony Hardon, SJ.
Thứ bảy ngày 30-12-2000, “ngày của Mẹ” cuối cùng trong Đại Năm Thánh 2000, đã được Thiên Chúa chọn làm ngày để đón Cha Hardon, người con yêu quý và tận trung của Mẹ Maria và Hội Thánh, về hưởng triều thiên Nước Trời sau 86 năm hành trình dương thế. Cha đã qua đời sau một thời gian chịu đau bệnh lâu dài tại Nhà Tĩnh Tâm Colombiere tại ngoại ô thành phố Detroit, Michigan.
Ông Alphonsus Matt, Jr., Chủ Nhiệm Tuần Báo Công Giáo The Wanderer, sau khi nghe tin Cha Hardon qua đời đã nhận xét: “Ngài là một đạo binh một người của Thiên Chúa”. Và ông giải thích: “Ngài là một linh mục mẫu mực và giáo xứ của ngài là cả thế giới. Tôi luôn cảm thấy ngỡ ngàng khi nghe biết một hôm ngài ở bên Nga, ngày hôm sau đã ở Ấn Độ, rồi một tuần sau đó lại giảng tĩnh tâm và diễn thuyết ở California”.
Một linh mục thần học gia nổi tiếng cùng dòng với Cha Hardon và đã quen biết ngài hơn 30 năm nay, Cha Kenneth Baker, SJ, gọi Cha Hardon là “một luồng ánh sáng giữa biển cả đầy sóng gió, một người rất mực bênh vực mạnh mẽ Huấn Quyền. Lời giảng dạy của ngài, các bút tích của ngài, sự linh hướng của ngài dành cho hàng trăm, hàng ngàn người đã khiến ngài trở thành một trong những linh mục quan trọng nhất trong thế kỷ này”.
Cha Baker nói thêm: “Ngài là một học giả đích thực theo truyền thống Dòng Tên, luôn khảo cứu, viết sách, giảng dạy. Ngài là một nhà truyền giáo chân chính đúng nghĩa nhất, luôn giúp đỡ mọi tín hữu Công Giáo thuộc mọi tầng lớp-kể cả hai vị giáo hoàng là Đức Phaolô VI và Đức Gioan-Phaolô II--và rất nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân”.
Ký giả Thomas A. Droleskey đã quen thân với Cha Hardon hơn 22 năm nay nhận định: “Tôi không thể mường tượng ra có người nào chuẩn bị chu đáo để gặp gỡ Thiên Chúa hơn Cha Hardon. Tôi rất tin tưởng rằng Cha Hardon, một người đã sống và chết một ‘cuộc tử đạo trắng’ (‘white martyrdom’) như ngài thường nói đến cách hùng hồn lúc gần đây, sẽ có ngày được Mẹ Giáo Hội tôn phong hiển thánh”.
Ông Fred Blonigen, một giáo viên của Trường Trung Học Thánh Annê ở St. Paul, Minnesota quen biết Cha Hardon gần 20 năm nay sau khi dự tĩnh tâm với ngài, chia sẻ cảm nghĩ của ông về ngài như sau: “Tôi nhớ là Cha Hardon thường nói ngài luôn muốn là một nhà truyền giáo, nhưng sức khỏe ngài không cho phép. Ngài đã nhận ra việc truyền giáo của ngài chính là nhờ ngòi bút qua các bài viết, nhờ miệng lưỡi qua việc giảng dạy và linh hướng. Đó là ơn gọi của ngài”.
Ông Blonigen nói thêm: “Ngài là một giáo lý viên của năm thập niên. Ngài là một tín hữu Công Giáo đích thực, một nhà thần học chân chính và một sĩ tử Dòng Tên chính hiệu. Khi ở trước mặt ngài, bạn biết bạn đang gặp một vị thánh. Mọi sự quanh ngài tỏa ra sự thánh thiện. Ngài không chỉ là một thày dạy vĩ đại, nhưng ngài còn sống đức tin của ngài trong sự trung thành hoàn toàn với Đức Thánh Cha và Huấn Quyền Hội Thánh”.
Đức Cha Raymond L. Burke, Giám Mục Địa Phận La Crosse, Wisconsin, nhận xét: “Cha Hardon là một người con thập thành của Thánh Ignatius Loyola. Ngài dâng hiến toàn thân cho Hội Thánh về mọi mặt, nhưng ngài quan tâm không mệt mỏi cách đặc biệt về việc thăng tiến giáo lý lành mạnh cho thiếu nhi và giới trẻ. Tôi ngưỡng mộ ngài rất nhiều và muốn hết sức cố gắng noi gương dấn thân tận tụy của ngài và sự nhiệt thành của ngài trong việc tiếp tục thực hiện dự án Chương Trình Giáo Lý Viên của Mẹ Maria”.
Cha John Anthony Hardon, SJ sinh ngày 18-06-1914 tại Midland, Pennsylvania. Cha ngài là một công nhân xây cất đã tử nạn trong một tai nạn khi ngài mới được một tuổi. Mẹ ngài là bà Anna Hardon thuộc Dòng Ba Phanxicô đã làm nghề lau dọn nhà cửa để nuôi dạy người con duy nhất của bà.
Năm 1936, ngài tốt nghiệp tại Đại Học John Carroll. Vì ngưỡng mộ Thánh Peter Canisius, một vị thánh đã rao giảng Tin Mừng giữa cơn khủng hoảng đức tin ở thế kỷ 16 tại Đức, ngài đã gia nhập Dòng Tên và được thụ phong linh mục vào đúng sinh nhật ngài tròn 33 tuổi năm 1947. Năm 1941, ngài tốt nghiệp Cao Học tại Đại Học Loyola. Đến năm 1951, ngài lãnh học vị tiến sĩ thần học tại Giáo Hoàng Học Viện Gregorian ở Rôma.
Nhiều năm sau đó Cha Hardon đã dạy thần học tại nhiều trường học và chủng viện của Dòng Tên và nhiều trường học của các giáo phái Tin lành.
Ngài là một tác giả nổi tiếng với hơn 40 tác phẩm. Đáng ghi nhận hơn cả là cuốn Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo được Nhà Xuất Bản Doublyday phát hành năm 1975. Người ta cho rằng trước khi Tòa Thánh phát hành Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, sách giáo lý chính thức của Giáo Hội, năm 1992, sách giáo lý do Cha Hardon biên soạn là cuốn giáo lý có giá trị trình bày đức tin Công Giáo cách chân thực nhất sau Công Đồng Vatican II. Cuốn giáo lý này hiện nay đã được in đến lần thứ 26 và đã bán được hơn một triệu ấn bản. Cha Hardon cũng được Tòa Thánh mời làm một trong những cố vấn trong việc soạn thảo Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo 1992.
Chính nhờ những công trình viết lách và ảnh hưởng sâu xa của ngài trong việc phổ biến giáo lý chân thật của Giáo Hội mà ngài được báo chí gọi là “Nhà Truyền Giáo bằng Ngòi Bút” và “Giáo Lý Viên của Thế Kỷ 20”.
Bên cạnh việc viết sách và giảng dạy, Cha Hardon còn được mời làm cố vấn cho Tòa Thánh từ năm 1964, làm linh hướng và cha giải tội cho Mẹ Teresa Calcutta và Dòng Thừa Sai Bác Ái, đào tạo các tu sĩ Dòng Thừa Sai Bác Ái thành các giáo lý viên, thành lập tạp chí Đức Tin Công Giáo (The Catholic Faith Magazine) để truyền bá giáo lý lành mạnh chân thực. Sau này, ngài còn thành lập hai tổ chức Inter Mirifica và Eternal Life (Sự Sống Đời Đời) để phổ biến các tác phẩm giáo lý do ngài biên soạn và các băng giảng dạy của ngài.
Theo yêu cầu của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, suốt trong thập niên vừa qua cho đến khi qua đời, Cha Hardon đã nỗ lực đào tạo các giáo lý viên của Mẹ Maria và Thánh Ignatius. Tác phẩm mới nhất của ngài là cuốn Cẩm Nang Các Giáo Lý Viên của Mẹ Maria (The Marian Catechists Manual) để cho các thành viên của hiệp hội giáo lý viên do ngài đào tạo xử dụng.
Việc Cha Hardon đặt Mẹ Maria là Đấng Bảo Trợ cho các giáo lý viên và công việc giảng dạy giáo lý cho thấy lòng biệt kính và cậy trông Đức Mẹ sâu xa nơi ngài. Lòng tôn sùng Đức Mẹ của ngài còn thể hiện qua việc ngài nhiệt liệt rao giảng sứ điệp Fatima, nhấn mạnh đến việc phải sống tận hiến cho Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria, và làm tuyên úy cho Phong Trào Tông Đồ Fatima Quốc Tế và Đạo Binh Xanh trong nhiều năm.
Một trong những điểm nổi bật nhất nơi Cha Hardon là lòng sùng kính Thánh Thể thẳm sâu nơi ngài. Dù sức khỏe suy yếu, ngài đã cố gắng đi khắp nơi trên thế giới để cổ võ và thiết lập những nguyện đường có chầu Thánh Thể liên tục. Ông William Smith cộng sự viên của Cha Hardon từ năm 1988 nói: “Ngài dành ít nhất ba giờ mỗi ngày trước Thánh Thể, và quỳ để viết thư và soạn sách. Từ những gì ngài nói với tôi, tôi tính ra ngài đã dành ra khoảng 50.000 giờ trước Thánh Thể từ khi trở thành tu sĩ Dòng Tên”.
Ông John Janaro, tác giả cuốn Fishers of Men (Những Kẻ Chài Lưới Người), chỉ cho thấy lòng trung thành, yêu mến, vâng phục Đức Thánh Cha và Hội Thánh nơi Cha Hardon như một trong những yếu tố chính giúp ngài chu toàn sứ vụ linh mục cách tốt đẹp. Ông nói: “Cha Hardon là một người có cuộc đời linh mục được uốn nắn bởi ước muốn đáp ứng các nhu cầu của Giáo Hội Hoàn Vũ được thể hiện trong các bối cảnh khác nhau của Giáo Hội tại Hoa Kỳ. Trong mọi bối cảnh, ngài đã để cho mình được hướng dẫn bởi Đấng Kế Vị Thánh Phêrô, và nhờ vậy ngài nắm chắc rằng viễn ảnh và các hoạt động linh mục của ngài sẽ thực sự thích đáng, thực sự phổ quát, và thực sự Kitô”.
Theo ký giả Thomas A. Droleskey, Cha Hardon ý thức rằng Giáo Hội đang gặp khủng hoảng vì giáo lý chân thực của Hội Thánh không được trình bày cách mạch lạc, xác tín và toàn diện, bởi không ít những người có trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo Hội. Năm 1987, ngài tiết lộ với ký giả Droleskey về tình trạng Giáo Hội tại Hoa Kỳ: “Này anh Tom, theo nhận định cẩn trọng của tôi chỉ có chừng sáu giám mục trên xứ sở này hoàn toàn trung thành với giáo huấn Chúa Kitô. Có khoảng bốn chục vị khác trung thành với hầu hết các giáo huấn của Người. Còn lại là toàn là những kẻ bất phục với những hình thức khác nhau”.
Tình trạng đáng buồn đó không làm cho Cha Hardon chán nản. Trái lại, ngài coi đó là cơ hội để ngài nỗ lực hơn trong việc bênh vực và rao giảng đức tin chân chính. Ngài nói: “Thiên Chúa đã biết từ đời đời chúng ta sẽ sống trong thời đại đầy vấn nạn này. Ân sủng của Người đủ cho chúng ta đối phó với những khó khăn này. Có việc cho chúng ta làm. Vậy nên, hỡi các bạn, hãy bắt tay vào việc!”
Và Cha Hardon đã dấn thân tận tụy làm việc để phụng sự Thiên Chúa và nhân loại với một tình yêu sâu xa dành cho Thiên Chúa, lòng phó thác cậy trông trọn vẹn nơi Mẹ Maria, nỗi quan tâm trăn trở về phần rỗi các linh hồn, sự gắn bó trung thành và vâng phục tuyệt đối dành cho Hội Thánh và Đức Thánh Cha. Ngài thích nhấn mạnh đến việc “Chúng ta phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực cho tới ngày chúng ta chết”. Và “chúng ta càng yêu mến Chúa, Chúa càng yêu mến chúng ta”.
Đặc biệt, ngài kêu gọi các tín hữu Công Giáo phải hãnh diện tuyên xưng mình là người Công Giáo qua việc làm dấu Thánh Giá trước khi ăn nơi công cộng. Bản thân ngài luôn mặc y phục linh mục khi ra ngoài vì với ngài: “Không có ngày nghỉ cho linh mục. Tôi được thụ phong để bị quấy rầy”.
Theo ký giả Paul Likoudis, sự trung thành tuyệt đối với Tin Mừng Sự Sống của Chúa Kitô và giáo huấn chân thực của Hội Thánh, nhất là nhiệt tâm bênh vực sự sống và không ngừng kết án tội ngừa thai nhân tạo của Cha Hardon, đã khiến không ít người có óc bất phục Hội Thánh ngay trong chính Dòng Tên, gia đình thiêng liêng của ngài, tẩy chay ngài. Trong suốt 16 năm cuối đời, ngài bị cấm dạy trong các đại học của Dòng Tên. Với kinh nghiệm đau thương này của bản thân, Cha Hardon lúc sau này thường nói đến “cuộc tử đạo trắng” hay thánh giá mà các tín hữu Chúa Kitô phải chịu trong thế giới hôm nay với. Và ngài đã nâng đỡ nhiều linh mục khác gặp hoàn cảnh như ngài.
Trong những ngày tháng cuối đời, ngài đã dâng lên Thiên Chúa những đau đớn tột cùng của bệnh ung thư để cầu nguyện cho Hội Thánh. Ngài đã trở nên như một của lễ đền tội sống động. Như ngài từng giảng dạy rằng kinh nguyện và đau khổ hy sinh là yếu tố không thể thiếu được trong việc Tân Phúc Âm Hóa thế giới hôm nay. Và ngài đã thực hiện cách trọn vẹn những gì ngài đã giảng dạy.
Thiên Chúa đã chúc lành cho nhiệt tâm tông đồ của Cha Hardon. Ngài đã trực tiếp giúp hàng ngàn người trở lại với niềm tin Công Giáo. Trong số đó có cả những nhân vật nổi tiếng như Ông Lee Atwater, nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia của Đảng Cộng Hòa (Chairman of the Republican National Committee). Ông William Smith nhận xét: “Tôi thực sự đoán rằng không mấy ai được như ngài về khả năng đánh động tâm hồn người ta và giúp các tín hữu Công Giáo được đầy niềm tin và nhiệt thành hơn”.
Tác giả Công Giáo Donna Steichen nói: “Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng chúng ta đang sống trong một thời tồi tệ. Nhưng Cha Hardon là một chứng cớ cho thấy chúng ta cũng đang sống giữa những vĩ nhân. Ngài là một con người dịu dàng, dễ mến, và can đảm. Ngài luôn bênh vực đức tin và truyền dạy đức tin cho mọi người. Ngài rất trầm lặng, nhưng ngài đã nói hết được những gì cần nói” (Theo Tuần Báo The Wanderer số Jan. 11, 2001 và Tuần Báo National Catholic Register số Jan. 14-20, 2001).
Từ ít lâu nay, khi nhận thấy Cha Hardon có những nỗ lực hoạt động để chống lại ảnh hưởng của các thứ thần học lệch lạc đang lan tràn trong Giáo Hội cũng như tận lực bênh vực và trình bày đức tin chân chính, tôi đã mến mộ ngài và âm thầm cầu nguyện cho ngài cách đặc biệt. Không ngờ, liền sau khi tôi có dịp viết lên xác tín của mình về ơn gọi phải trở nên chiến sĩ Chúa Kitô của mỗi tín hữu Công Giáo trong thời đại hiện nay, từ những bài báo về cái chết an lành và đời sống thánh thiện của Cha Hardon, Chúa đã chỉ cho tôi thấy rõ vị linh mục Dòng Tên này chính là một mẫu gương sáng chói tuyệt vời cho mọi tín hữu, nhất là hàng tu sĩ linh mục hôm nay noi theo.
Từ gương sống thánh thiện của Cha Hardon, tôi đã nhận ra rằng khi một người biết luôn yêu mến kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể, cậy trông phó thác trọn vẹn nơi Mẹ Maria, gắn bó vâng phục Hội Thánh và Đức Thánh Cha, kiên trì cầu nguyện, quảng đại trong việc hy sinh hãm mình, tận dụng thời giờ và phương tiện để phụng sự Thiên Chúa và mưu cầu phần rỗi các linh hồn, người ấy chẳng những sẽ trở nên một chiến sĩ dũng cảm của Chúa Kitô mà còn có một sức mạnh lớn lao như “đạo binh một người của Thiên Chúa”, để chiến thắng ma quỷ, thế gian và xác thịt trong trận chiến đức tin ngày càng ác liệt.
Tôi đã cắt hình Cha John Anthony Hardon, SJ. trong tờ National Catholic Register để dán vào nhật ký của mình, sau khi đọc xong bài báo thuật lại đời sống thánh thiện của ngài. Chưa bao giờ tôi làm thế với bất cứ ai! Có lẽ Chúa muốn rằng, như Cha Hardon đã ngưỡng mộ và noi gương thánh Peter Canisius thế nào, tôi cũng phải ngưỡng mộ và noi gương Cha Hardon như thế!
Cảm tạ Chúa và Mẹ đã ban cho thời đại chúng con mẫu gương thánh thiện rạng ngời của Cha John Anthony Hardon, SJ.
Thánh Ignatius thành Loyola, người chiến sĩ ngoan cường và quảng đại của Chúa Kitô, cầu cho chúng con.
Cha John-Hardon, “đạo binh một người của Thiên Chúa”, cầu cho chúng con.
(Feb. 06-08, 2001)
PS: Bài này đã được đăng trên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp số thang 3 năm 2001. Nhân kỷ niệm 20 năm ngài qua đời, xin gửi đến độc giả Thanhlinh.net HP (Dec. 21, 2020) HP