Nhảy đến nội dung

Đệ nhấ cổ kim kỳ sự

ĐỆ NHẤT CỔ KIM KỲ SỰ

Trong “Normae de Anno liturgico et Calendario” (Những Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên lịch) có viết:  “Sau việc cử hành hàng năm mầu nhiệm Vượt Qua, Hội Thánh không có việc cử hành nào cổ xưa bằng việc kính nhớ Chúa Giáng Sinh và kính nhớ những lần tỏ mình đầu tiên của Người: đó là Mùa Giáng Sinh” (AC, 32). Đó cũng là lý do khi chia sẻ về mầu nhiệm Giáng Sinh rất dễ mà cũng rất khó. Dễ vì về mặt tài liệu tham khảo dẫn chứng thì có vô vàn vô số, không thể thống kê nổi (từ những văn kiện truyền thống của Giáo Hội, đến những bài viết của hàng Giáo phẩm và của Ki-tô hữu giáo dân). Cũng rất dễ vì Lễ Giáng Sinh đã trở thành một lễ chung của thế giới (không phân biệt tôn giáo) diễn ra hàng năm trên khắp mặt địa cầu (từ phố thị đến thôn quê, từ những đại lộ thênh thang đến những hang cùng ngõ hẻm, từ những ngôi nhà nguy nga tráng lệ đến những mái là nghèo nàn thô sơ…). Bài viết sẽ trở nên rất phong phú vì những tài liệu, những thực cảnh dẫn chứng vô cùng đa dạng và sinh động.

Tuy nhiên, lại cũng rất khó vì tính cách “không có việc cử hành nào cổ xưa bằng việc kính nhớ Chúa Giáng Sinh” (ibid). Gặp phải đối tượng là những khán thính giả khó tính, chỉ thích những gì “mới thật mới”, chắc chắn không khỏi nghe tiếng chẹp miệng phản hồi: “Ôi dào ! Chuyện xưa như trái đất, có chi mà cứ lải nhải hoài”. Tôi không bi thảm hoá vấn đề đâu, vì đã có một cây viết trên một trang web Công Giáo nói rằng những bài Thánh ca Giáng Sinh sáo mòn cũ rích năm nào cũng lặp đi lặp lại, ra rả bên tai một cách nhàm chán vô vị. Thế đấy! Mà thôi, mỗi người có cách nhìn (quan điểm) riêng và có thế mới gọi là c’est la vie (Đời mà!). Chỉ xin cố gắng dàn trải những cảm nghiệm, suy nghĩ về một sự kiện rất cũ (cổ) và rất mới (kim) nhưng lại rất vĩ đại và có sức thu hút rất mãnh liệt này. Đó chính là một “Đệ nhất cổ kim kỳ sự” (sự kiện lạ lùng số một xưa nay): Chúa Cứu Thế giáng trần.

Vâng, lễ Giáng Sinh lần thứ 2011 lại tới. Cũng vẫn như mọi năm, sự náo nức chuẩn bị mừng đón Đấng Cứu Tinh, những cây thông, những hang đá, những tượng ảnh tràn lan khắp nơi, trong một bầu khí nồng ấm nhộn nhịp vui tươi, với những bản thánh ca không bao giờ cũ (vì đã vượt cả thời gian và không gian)…Tuy nhiên, lại có những điều rất mới riêng ở Việt Nam (năm sống mầu nhiệm Giáo Hội) cũng như trên toàn thế giới (năm sống Đức Tin Ki-tô Giáo). Ngoài ra, còn một sự kiện đặc thù nữa diễn ra cùng một ngày với sự kiện ĐTC ban hành Thông điệp “Năm sống Đức Tin” (27/10/2011) tại Việt Nam cũng như trên thế giới, đó là ngày triển khai “tinh thần Assisi” – ngày đối thoại liên tôn (kể cả vô tín) – ngày “Thế giới cầu nguyện cho Hòa bình”. Như vậy thì có còn là cũ không?

Cũng vẫn còn, vì cách đây 2011 năm, loài người cũng trông đợi Vua Tình Yêu đem an bình xuống cho nhân loại. Người đã đến và đêm Hoà Giải đã xảy ra, nhưng con người đã đón vị cứu tinh ấy bằng một Vua-sát-thủ Hê-rô-đê quyền lực “…sai quân tru diệt hết các trẻ con tại Be-lem và toàn vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian ông đã hỏi kỹ nơi các đạo sĩ” (Mt 2, 16). Cách đây 20 thế kỷ, loài người đã đón tiếp vị Sứ giả Hoà Bình, đã đón nhận sự hoà giải như vậy đó. Cứ tưởng ở thời đại thượng cổ mới xảy ra như vậy, còn ngày nay trong một xã hội văn minh tiến bộ, thì làm gì có những chuyện đó. Vậy mà trải qua 2011 lần kỷ niệm ngày Hoà Giải, ngày nay cũng vẫn còn hàng loạt sinh mạng chết từ trong trứng nước (nạo phá thai, huỷ diệt trứng, tinh trùng), rồi cũng hàng loạt sinh mạng trưởng thành thuộc đủ mọi giai cấp, nhưng đa số vẫn là thường dân thuộc giai cấp thấp cổ bé miệng, chết vì chiến tranh, vì khủng bố. Loài người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người, vậy thì những sinh mạng mang hình ảnh Thiên Chúa ấy bị giết hại thì phải chăng loài người cũng chẳng kém gì Hê-rô-đê thủa xưa lùng giết Đức Giê-su Thiên Chúa vậy.

Với quyền năng của Thiên Chúa thì sá gì một Hê-rô-đê, mà dù cho có đến cả triệu triệu Hê-rô-đê đi chăng nữa cũng chỉ là số không. Nhưng với thân phận con người mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc lấy, thi chỉ cần một Hê-rô-đê thôi cũng đã khiến hàng loạt hài nhi bị giết, và Hài Nhi Giê-su phải trốn sang Ai Cập. Cứ nghĩ đến cuộc đối thoại giữa đám đông người Do thái với Thánh Gio-an Tiền Hô ("Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây ?" Ông trả lời : "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy." Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông : "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? " Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." Binh lính cũng hỏi ông : "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? " Ông bảo họ "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình." – Lc 3, 10-14) ; rồi nhìn kỹ lại bản thân, nhiều khi tôi giật mình, sợ đến toát mô hôi, vì thấy mình cũng – một cách nào đó – giống như Hê-rô-đê.

Thật thế, đã chẳng hơn một lần trong vai trò người thu thuế tôi đã gian lận, đã đòi hỏi quá mức ấn định cho mình, để rồi dùng số thặng dư đó vào những canh bạc đỏ đen; cũng đã hơn một lần trong vai trò thủ quỹ, tôi đã thụt két, đã biển thủ để có dịp lao vào đề đóm, cá độ bóng đá; cũng đã hơn một lần trong vai trò người lính, tôi đã mượn những chiêu bài bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự, để khảo của, tống tiền, hà hiếp người khác... Rồi biết bao nhiêu lần tôi không chỉ có 2 áo, mà là đùm đề áo đơn áo kép, mô đen nọ, kiểu dáng kía, nhưng tôi đã ngoảnh mặt đi khi thấy những người anh em co ro da bọc xương chìa tay xin; cũng không biết bao nhiêu lần tôi đã làm ngơ trước những người anh em bệnh hoạn, tật nguyền, tù tội, hoặc cùng lắm là kiếm vài hộp sữa, vài gói mì tôm... rình rang ném cho họ với một thái độ dửng dưng chai đá đến lạ lùng. Chưa hết đâu, cũng không biết bao nhiêu lần tôi cố tình đào sâu những tị hiềm ghen ghét để đi đến chỗ “giết người không đao”, không những thế, khi thấy anh em bất hoà, kiện tụng nhau, tôi chẳng những đã không hoà giải, mà còn “xui nguyên giục bị” khiến họ càng chồng chất oán thù. Nhiều, nhiều lắm, nhiều quá lắm! Và như vậy thì tôi đâu thua kém gì Hê-rô-đê!

Cứ tưởng chuyện Hê-rô-đê-sát-thủ “xưa như trái đất”; thật không thể ngờ thời đại hoàng kim này vẫn còn nhan nhản những Hê-rô-đê-thời-đại. Chính vì thế, Lễ mừng Con Thiên Chúa Giáng Sinh rất cũ mà cũng rất mới. Cũ vì nó đã xảy ra trên 2.000 năm, nhưng rất mới vì ngày giờ nào Đấng Cứu Tinh cũng luôn luôn sẵn sàng Giáng Sinh không phải nơi hang bò lừa, mà là trong cung lòng mỗi người, mọi người. Duy chỉ có điều con người có sẵn sàng “lấp cho đầy mọi thung lũng tị hiềm thù hận, bạt cho thấp mọi núi đồi ngạo mạn kiêu căng, uốn cho ngay mọi khúc quanh co gian hiểm, san cho phẳng mọi đường lồi lõm ghét ghen” để đón tiếp Người, hay lại tiếp đón Người như một Hê-rô-dê-thời-đại, mà thôi.

Ôi! Lạy Chúa! Con biết cung lòng con vô cùng nhơ nhuốc, mà Chúa vẫn sẵn sàng đến ngự, rồi còn mời gọi con “hãy dâng tất cả sự yếu đuối và tội lỗi của con cho Ta”. Vâng, con nguyện dâng Chúa tất cả cuộc đời của con, cúi xin Chúa chuẩn nhận và tha thứ hết mọi lỗi lầm, để cung lòng con được “tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an" (2Pr 3, 14) như máng cỏ Be-lem thủa xưa được vinh dự mừng đón Chúa giáng trần. Xin cho con được cùng với các mục đồng dưới thế hoà ca cùng thần thánh trên cõi trời cao, mà tung hô rằng:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

JM. Lam Thy ĐVD.

    

Tác giả: