Nhảy đến nội dung

ĐGH ca ngợi chân phước Wyszyński, người phản đối mạnh mẽ chủ nghĩa cộng sản

  • T6, 30/05/2025 - 07:41
  • admin1

ĐỨC GIÁO HOÀNG CA NGỢI CHÂN PHƯỚC WYSZYŃSKI, NGƯỜI CỐ VẤN CỦA ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II VÀ LÀ NGƯỜI PHẢN ĐỐI MẠNH MẼ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN

Đức Giáo hoàng Leo XIV tưởng nhớ Đức Hồng y Stefan Wyszyński, người đã anh dũng chống lại chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và cũng là người cố vấn cho Thánh John Paul II.

Trong lời chào mừng những người hành hương tại buổi tiếp kiến chung vào ngày 28 tháng 5, kỷ niệm ngày mất của Chân phước, Đức Thánh Cha đã ca ngợi chứng tá và tấm gương sống của ngài như một "mục tử trung thành của Chúa Kitô" bất chấp sự đàn áp của cộng sản.

"Với sự hy sinh và đối thoại, ngài đã làm việc vì sự hiệp nhất của Giáo hội và xã hội. Mong rằng chứng tá của ngài sẽ là nguồn cảm hứng cho anh chị em trong việc chăm sóc Giáo hội và quê hương", Đức Giáo hoàng lưu ý.

Stefan Wyszyński sinh ngày 3 tháng 8 năm 1901 tại Zuzela nad Bugiem, một thị trấn vào thời điểm đó thuộc Đế quốc Nga, trong bối cảnh chính trị và xã hội phân chia.

Từ một gia đình nghèo và rất sùng đạo

Tình hình đất nước chia cắt trái ngược với sự đoàn kết, các giá trị vững chắc và tình yêu quê hương mà Stefan nhận được trong vòng tay của một gia đình nghèo nhưng hết sức sùng đạo. Đặc biệt, cha ông là người có vai trò quan trọng trong quá trình nuôi dạy ông.

Sau khi mất mẹ, bà Julianna, khi mới chín tuổi, Stefan đã tìm thấy ở Đức Mẹ Đồng Trinh sự an ủi và tình mẫu tử mà anh khao khát.

Ông được thụ phong linh mục vào ngày 3 tháng 8 năm 1924 và được bổ nhiệm làm cha sở tại Vương cung thánh đường. Ông theo học Luật Giáo hội và Kinh tế xã hội tại Đại học Công giáo Lublin, nơi ông lấy bằng Tiến sĩ Luật Giáo hội.

Hoạt động của Wyszyński trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh là báo chí. Cụ thể, ông là biên tập viên, người phát ngôn và tổng biên tập của tạp chí Ateneum Kapłańskie từ năm 1932 đến năm 1939.

Ông cũng từng là giáo sư khoa học xã hội tại chủng viện giáo phận, là giám đốc của Cơ quan Truyền giáo Giáo phận, là người bảo vệ mối quan hệ và thúc đẩy công lý tại tòa án giám mục, là giám đốc của Hội Công giáo Marian và Đại học Công nhân Kitô giáo, và là thành viên của Ủy ban Xã hội Nguyên thủy.

Theo Bộ Tuyên Thánh , vào ngày 4 tháng 3 năm 1946, Đức Piô XII đã bổ nhiệm ngài làm Giám mục Lublin. Ngài đã mang đến động lực mục vụ mới cho giáo phận bị chiến tranh tàn phá này, chăm sóc cho mọi lĩnh vực.

Thỏa thuận với những người cộng sản để bảo vệ Giáo hội

Hai năm sau, vào ngày 16 tháng 11 năm 1948, ngài được bổ nhiệm làm Tổng giám mục của hai thành phố lớn là Gniezno và Warsaw, và trở thành Tổng giám mục mới của Ba Lan.

Wyszyński, ngoài chức vụ Chủ tịch Hội đồng Giám mục, còn thực hiện quyền tài phán đối với các vùng lãnh thổ hậu Đức được trao cho Ba Lan, chăm sóc những người Công giáo ở Liên Xô.

Trước mối quan hệ ngày càng căng thẳng với chế độ cộng sản, vào tháng 4 năm 1950, Đức Hồng y Wyszyński đã quyết định ký một “thỏa thuận” với chính quyền cộng sản.

Với thỏa thuận này, chính quyền công nhận quyền tự chủ của Giáo hội và sự phụ thuộc về mặt phẩm trật của Giáo hoàng. Về phần mình, Wyszynski phải thừa nhận tính hợp pháp của chế độ.

Tòa thánh coi cử chỉ này là tiêu cực, vì cho rằng văn kiện này quá mang tính hòa giải vào thời điểm mà sự hợp tác với chủ nghĩa cộng sản có thể bị trừng phạt bằng hình phạt vạ tuyệt thông.

Tuy nhiên, mục tiêu của Giáo chủ Ba Lan là bảo vệ Giáo hội ở đất nước mình, và nhờ vào vị trí này, Giáo hội Ba Lan đã được cứu trong suốt thời kỳ Stalin đẫm máu nhất.

Những gì của Caesar thì thuộc về Caesar, những gì của Chúa thì thuộc về Chúa.

Bất chấp thỏa thuận, chính quyền vẫn tìm cách kiểm soát việc bổ nhiệm giám mục trong Giáo hội Công giáo.

Đáp lại, Wyszyński đã bày tỏ sự phản đối kiên quyết bằng câu nói: Non possumus! , trong đó ông tuyên bố từ chối tiếp tục nhượng bộ và ngăn chặn việc đặt “những thứ của Caesar” lên bàn thờ của Chúa.

Điều này dẫn đến việc ông bị bắt vào ngày 25 tháng 9 năm 1953, cùng năm ông được Giáo hoàng Pius XII tấn phong làm hồng y. Ông bị giam giữ biệt lập trong ba năm và được thả vào ngày 28 tháng 10 năm 1956.

Đức Hồng y tiếp tục các hoạt động mục vụ của mình, trở thành biểu tượng của tự do, công lý, tôn trọng nhân loại và sự thống nhất cho toàn thể người dân Ba Lan. Ông cũng tích cực tham gia Công đồng Vatican II. Ông mất ngày 28 tháng 5 năm 1981 tại Warsaw (Ba Lan) sau thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư.

Một người đàn ông thông minh với tính cách mạnh mẽ

Bộ Giáo lý Đức tin Vatican mô tả ông là "một người đàn ông thông minh có tính cách mạnh mẽ", người phải đưa ra những quyết định tinh tế "và ban hành những điều khoản có tầm quan trọng đặc biệt". Lời chứng và hành động của ông là một đòn giáng mạnh vào chế độ cộng sản, vốn tìm cách xóa bỏ Công giáo khỏi đất nước.

Sự phản đối của ông đối với chế độ, khiến ông phải ngồi tù ba năm, cũng gây ra sự thù địch giữa một số thành viên giáo sĩ có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản. Bất chấp sự cô đơn và bị bỏ rơi, ông vẫn củng cố đức tin, vâng phục Chúa Kitô và cầu nguyện nhiều hơn.

Trong thời gian bị giam giữ, ngài khuyến khích mọi người kiên trì trong đức tin, không nghĩ đến ngài, nhưng hãy kiên định chống lại kẻ thù. Ông thể hiện tình yêu thương lớn lao đối với người nghèo và người bệnh. Với tư cách là một giám mục, ngài đã đến thăm các bệnh viện và nhà tù, mang lại hy vọng và lòng bác ái.

Ngài là người cố vấn cho Thánh Gioan Phaolô II, người đã đến gần ngài vào ngày 22 tháng 10 năm 1978, vào cuối Thánh lễ khai mạc triều đại giáo hoàng của mình, để hôn tay ngài như một dấu hiệu của tình cảm và lòng biết ơn vì đã hướng dẫn Giáo hội tại Ba Lan trong những năm tháng bị đàn áp.

Ngài được phong chân phước vào ngày 12 tháng 9 năm 2021, sau khi có sự chấp thuận về một phép lạ chữa lành được cho là nhờ lời chuyển cầu của ngài bởi Sơ Nulla Garlińska thuộc Hội các Nữ tu, Đệ tử Thánh giá.

Lm. Anmai, CSsR tổng hợp