Nhảy đến nội dung

ĐGH Leo XIV tưởng niệm vị hồng y tử đạo đã cứu hàng ngàn người Do Thái

  • T3, 03/06/2025 - 01:22
  • admin2

 ĐGH Leo XIV tưởng niệm vị hồng y tử đạo đã cứu hàng ngàn người Do Thái

Image

Đức Thánh Cha Leo XIV đã nhắc lại cuộc đời và di sản của Đức Hồng y in Pectore Iuliu Hossu, một giám mục Công giáo Hy Lạp người Lỗ Ma Ni, “vị mục tử và vị tử đạo của đức tin trong cuộc đàn áp của cộng sản ở Lỗ Ma Ni”, ngài đã được tưởng niệm vào thứ Hai tại Vatican và đã cứu hàng ngàn người Do Thái khỏi cái chết trong Thế chiến II.

“Hôm nay, chúng ta tụ họp tại Nhà nguyện Sistine để tưởng nhớ, trong năm thánh dành riêng cho hy vọng, một tông đồ của hy vọng: Đức Hồng y Iuliu Hossu, giám mục Công giáo Hy Lạp của Cluj-Gherla,” Đức Thánh Cha nói khi bắt đầu bài phát biểu của mình tại buổi lễ tưởng niệm vị hồng y, ngài đã qua đời cách đây 55 năm vào ngày 28 tháng Năm năm 1970.

“Hôm nay,” Đức Thánh Cha Leo nói tiếp , “ngài bước vào nhà nguyện này sau khi Thánh Phaolô VI, vào ngày 28 tháng Tư năm 1969, đã phong ngài làm hồng y “in pectore” (trong bí mật) khi ngài đang ở trong tù vì lòng trung thành của mình với Giáo hội Roma.”

Theo Vatican News, việc bổ nhiệm Hossu làm hồng y không được biết đến cho đến năm 1973, ba năm sau cái chết của hồng y “in pectore”.

Theo Catholic Encyclopedia, giáo hoàng có thể phong chức hồng y in pectore, một danh hiệu chỉ giáo hoàng và hồng y biết. Ngài không có được quyền của hồng y cho đến khi được công bố rộng rãi. Nếu giáo hoàng qua đời trước khi điều này được biết đến, ngài sẽ không trở thành thành viên của Hồng y đoàn.

‘Người công chính giữa các quốc gia’

Trong bài phát biểu của mình, Đức Thánh Cha Leo XIV nhấn mạnh rằng năm nay, vị hồng y này được đặc biệt tưởng nhớ, vì ngài là “biểu tượng của tình huynh đệ vượt qua mọi ranh giới sắc tộc hoặc tôn giáo. Quá trình công nhận ngài là ‘Người công chính giữa các quốc gia’, bắt đầu vào năm 2022, dựa trên cam kết dũng cảm của ngài trong việc hỗ trợ và cứu người Do Thái ở Bắc Transylvania khi, từ năm 1940 đến năm 1944, Đức Quốc xã đã thực hiện kế hoạch bi thảm là trục xuất họ đến các trại diệt chủng.”

Danh hiệu “Người công chính giữa các dân tộc” được Trung tâm tưởng niệm nạn diệt chủng Yad Vashem tại Jerusalem trao tặng cho những người không phải Do Thái đã liều mạng sống để cứu người Do Thái khỏi sự diệt chủng của Đức Quốc xã.

Hành động trước ‘bóng tối của đau khổ’

Đức Thánh Cha Leo XIV sau đó đã nhắc lại một đoạn trong bức thư mục vụ năm 1944 do vị tử đạo khả kính viết, trong đó ngài tuyên bố: “Lời kêu gọi của chúng tôi gửi đến tất cả các bạn, những người anh em khả kính và những đứa con yêu dấu, hãy giúp đỡ người Do Thái không chỉ bằng suy nghĩ mà còn bằng sự hy sinh của mình, nhận thức rằng ngày nay chúng ta không thể hoàn thành công việc cao quý hơn công việc cứu trợ của Kitô giáo và Lỗ Ma Ni này, xuất phát từ lòng bác ái nồng nhiệt của con người. Mối quan tâm đầu tiên của thời điểm hiện tại phải là công việc cứu trợ này.”

“Đức Hồng y Hossu, trong khoảng thời gian từ năm 1940 đến năm 1944, đã góp phần cứu hàng ngàn người Do Thái khỏi cái chết ở phía bắc Transylvania. Niềm hy vọng của người chăn chiên vĩ đại chính là niềm hy vọng của người đàn ông trung thành, người biết rằng cánh cổng của sự dữ sẽ không thắng được công trình của Thiên Chúa,” Đức Thánh Cha tiếp tục.

Sau khi nhấn mạnh rằng ngài là người sống “cầu nguyện và tận tụy với người khác,” Đức Thánh Cha Leo đã nhắc lại rằng Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phong chân phước cho Đức Hồng y Hossu vào ngày 2 tháng Sáu năm 2019, tại Blaj, Lộ Ma Ni — cùng với sáu giám mục tử đạo khác — và nhấn mạnh một cụm từ trong bài giảng của ngài thuộc về giám mục và hồng y: “Thiên Chúa đã gửi chúng ta vào bóng tối đau khổ này để tha thứ và cầu nguyện cho sự hoán cải của tất cả mọi người.”

Đối với Đức Thánh Cha Leo XIV, cụm từ “ngày nay vẫn là lời mời gọi mang tính tiên tri để vượt qua hận thù thông qua sự tha thứ và sống đức tin với phẩm giá và lòng can đảm.”

‘Một người can đảm và hào phóng, thậm chí đến mức hy sinh cao cả’

Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng “Thông điệp của Đức Hồng y Hossu hợp thời hơn bao giờ hết. Những gì ngài đã làm cho người Do Thái ở Lỗ Ma Ni, những hành động mà ngài thực hiện để bảo vệ người khác, bất chấp mọi rủi ro và nguy hiểm, cho thấy ngài là  mẫu gương của một người tự do, can đảm và hào phóng, thậm chí đến độ hy sinh cao cả.”

“Vì vậy, khẩu hiệu của ngài, ‘Đức tin của chúng ta là cuộc sống của chúng ta’, nên trở thành khẩu hiệu của mỗi người chúng ta.”

Sau khi khuyến khích tấm gương của Đức Hồng y Hossu trở thành “ánh sáng cho thế giới ngày nay,” Đức Thánh Cha Leo XIV cuối cùng đã thốt lên: “Chúng ta hãy nói ‘không’ với bạo lực, với bất kỳ bạo lực nào, thậm chí còn hơn thế nữa nếu nó được thực hiện đối với những người không có khả năng tự vệ và dễ bị tổn thương, chẳng hạn như trẻ em và gia đình!”

Iuliu Hossu là ai?

Iuliu Hossu là một giám mục Công giáo Hy Lạp và là hồng y in pectore (trong bí mật). Ngài sinh ngày 30 tháng Một năm 1885 tại Milas.

Năm 1904, ngài bắt đầu học thần học tại Cao đẳng Tuyên truyền Đức tin ở Roma. Năm 1906 và 1908, ngài lần lượt lấy bằng tiến sĩ triết học và thần học. Ngày 27 tháng Ba năm 1910, ngài được thụ phong linh mục.

Theo Vatican News, vào ngày 3 tháng Ba năm 1917, ngài được bổ nhiệm làm giám mục của Giáo phận Công giáo Hy Lạp Gerla ở Transylvania. Năm 1930, giáo phận này đổi tên thành Cluj-Gherla, chuyển trung tâm đến thành phố Cluj Napoca. Có một thời gian tư ngụ ở đó từ năm 1940 đến năm 1944.

Vào ngày 28 tháng Mười năm 1948, Đức Hồng Hossu bị chính quyền cộng sản bắt giữ và đưa đến Dragoslavele. Sau đó, ngài được chuyển đến Tu viện Chính thống giáo Caldarusani và vào năm 1950 đến Nhà tù Sighetul Marmatiei. Năm 1955, ngài đến Curtea de Arges, năm 1956 đến tu viện Ciorogarla và cuối cùng trở về Caldarusani.

Vào tháng Tám năm 1961, ngài đã viết những lời này trong tù: “Con không thể lấy đi tình yêu của Chúa; đối với con thế là đủ: Con cầu xin Chúa tha thứ cho mọi tội lỗi của con và con cảm tạ Chúa bằng cả con người con vì tất cả những gì Chúa đã ban cho con, người tôi tớ vô dụng của Chúa.”

Đức Hồng y Hossu bị tước đoạt mọi quyền tự do cho đến khi qua đời vào ngày 28 tháng Năm năm 1970, tại Bệnh viện Colentina ở Bucharest, nơi những lời cuối cùng của ngài là: “Trận chiến của con đã kết thúc; trận chiến của Người vẫn tiếp diễn.”

Jos. Nguyễn Minh Sơn