Điều gì làm Đức Mẹ khóc ? - Di sản Thánh Thomas Aquino
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Trầm Thiên Thu
ĐIỀU GÌ LÀM ĐỨC MẸ KHÓC?
Ngày 19 tháng 9 năm 1846, một “Bà Đẹp” tràn ngập ánh sáng như thể được tạo ra từ ánh sáng, hiện ra trước hai người chăn bò là cô bé Melanie Mathieu 14 tuổi và cậu bé Maximin Giraud 11 tuổi. Hai em đang tìm kiếm bò đi lạc ở La Salette, một vùng hẻo lánh trên dãy núi Alps của Pháp. Đội vương miện hoa hồng và vương miện ánh sáng, Đức Mẹ bước ra từ một “quả cầu lửa” trong trang phục của phụ nữ địa phương. Từ sợi dây chuyền vàng quanh cổ cô treo một Thánh Giá lớn có búa và kìm đóng gần cả hai bàn tay bị đóng đinh của Chúa Giêsu. Đức Mẹ đang ngồi và khóc, hai tay ôm đầu.
Trong lần hiện ra siêu nhiên này, được Vatican hoàn toàn chấp thuận là xác thực, là những lời quan trọng mà Đức Mẹ đã nói trong nước mắt, bằng giọng như âm nhạc Thiên Đàng, với Melanie và Maximin:
“Hãy đến với Ta, hỡi các con của Ta. Đừng sợ. Ta ở đây để nói với các con một điều quan trọng nhất. Nếu người ta không vâng lời, Ta sẽ buộc phải buông tay Con Ta. Cánh tay đó nặng nề, bức bách đến mức Ta không thể kiềm chế được nữa.
Ta đau khổ vì người ta lâu rồi!... Ta ấn định cho người ta sáu ngày để làm việc, ngày thứ bảy Ta dành riêng cho Ngài. Và sẽ không có ai trao nó cho Ngài...
Nếu mùa màng bị hư hỏng thì đó là lỗi của người ta. Ta cảnh báo năm ngoái về khoai tây. Người ta không chú ý. Hoàn toàn ngược lại, khi người ta phát hiện khoai tây đã thối rữa, người ta đã chửi thề, đã lạm dụng Thánh Danh của Chúa Con. Khoai tây sẽ tiếp tục thối rữa và đến Giáng Sinh năm nay sẽ không có gì còn lại.
Nếu người ta có ngũ cốc,... bất kỳ phần nào của nó nảy lên sẽ vỡ vụn thành bụi khi người ta đập nó. Một nạn đói lớn đang đến. Nhưng trước khi điều đó xảy ra, những đứa trẻ dưới 7 tuổi sẽ run rẩy và chết trong vòng tay của cha mẹ. Người lớn sẽ phải trả giá cho tội lỗi của mình bằng cơn đói...
Chỉ có một số phụ nữ lớn tuổi đi lễ vào mùa hè. Tất cả những người còn lại làm việc vào Chúa Nhật hằng tuần trong suốt mùa hè. Vào mùa đông, khi họ không biết phải làm gì với bản thân, họ đi dự lễ chỉ để giễu cợt tôn giáo.”
Mặc dù một dòng suối kỳ diệu trào ra từ một tảng đá ở nơi Đức Trinh Nữ viếng thăm, đem lại nhiều ơn chữa lành, nhưng nạn đói lớn đã giết chết hơn một triệu người đã xảy ra vào năm sau cuộc hiện ra như đã được tiên báo, ở Pháp và khắp Âu châu, cùng với trận dịch tả nghiêm trọng ở Pháp.
Đức Mẹ La Salette quở trách hai sự xúc phạm nghiêm trọng đối với Thiên Chúa, cả hai đều bị vi phạm rộng rãi hơn trong thời đại chúng ta: vô cớ dùng Danh Thánh Chúa và vi phạm Ngày Sabát Thánh của Ngài. Ở đây chỉ xem xét điều răn thứ ba về ngày sabát, như Thiên Chúa đã truyền cho Môsê: “Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sabát và coi đó là ngày thánh.” (Xh 20:8-11)
Tại La Salette, Đức Mẹ đau khổ tuyên bố một cách mạnh mẽ và cấp bách về mức độ nghiêm trọng của mệnh lệnh này và những hậu quả tai hại của việc vi phạm. Trong thời đại này, khi tất cả Mười Điều Răn đều bị vi phạm một cách tràn lan và trắng trợn, không có điều răn nào bị bất tuân một cách dễ dàng hơn – có thể nói là quá tình cờ – hơn là mệnh lệnh long trọng phải giữ Ngày Chúa Nhật là Ngày Thánh.
Người ta sẽ không mong đợi những người hoàn toàn làm ngơ và phô trương các luật đạo đức của Thiên Chúa sẽ chú ý đến lệnh truyền của Ngài là phải tuân giữ ngày sabát. Tuy nhiên, chính sự thờ ơ với mệnh lệnh căn bản này của những người trong chúng ta ngày nay tuyên bố tuân theo luật của Thiên Chúa đã khiến Đức Mẹ buồn bã và đau khổ nhất.
Vì khá rõ ràng là nhiều người (hầu hết?) trong chúng ta, những người tuyên xưng đức tin Công giáo, thường không cân nhắc kỹ lưỡng trong việc giữ ngày sabát như một ngày nghỉ ngơi và canh tân tâm linh. Chúng ta có thể thực hiện nghĩa vụ quan trọng nhất vào ngày Chúa Nhật là tham dự Thánh Lễ, cầu nguyện, ghi nhận những giáo huấn về giáo lý và luân lý của Giáo Hội, đồng thời đóng góp vào việc hỗ trợ giáo xứ của chúng ta. Tuy nhiên, vào Chúa Nhật, chúng ta có thể cắt cỏ, giặt giũ, sơn phòng, dọn dẹp, thanh toán hóa đơn, rửa xe, sửa vòi nước bị rò rỉ và dạo quanh các cửa hàng để mua hàng giá rẻ. Trên thực tế, chúng ta thường xuyên vi phạm luật thiêng liêng, vốn có trước các mệnh lệnh khác của Thiên Chúa chống lại việc giết người, ngoại tình và trộm cắp. Tuy nhiên, Kinh Thánh rõ ràng đối đầu với nền đạo đức chọn lọc như vậy: “Ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành người có tội về hết mọi điểm.” (Gc 2:10)
Có lẽ chúng ta đã đi đến chỗ hợp lý hóa công việc ngày Chúa Nhật của mình không phải là “lao động nô lệ,” sử dụng thuật ngữ truyền thống cho công việc bất hợp pháp vào Chúa Nhật, mà là những công việc gia đình được theo đuổi một cách thú vị theo tinh thần “giải trí” trong ngày. Nhưng chắc chắn đó không phải là cách mà Đức Mẹ La Salette đau khổ – người “chỉ định cho [chúng ta] sáu ngày làm việc” – đã nhìn nhận điều đó.
Tất nhiên, đúng là một số người phải làm việc vào Chúa Nhật để kiếm kế sinh nhai, và có những trường hợp khẩn cấp phải giải quyết cũng như các nhiệm vụ cần thiết khác: “Các nhu cầu của gia đình hoặc dịch vụ xã hội quan trọng có thể được miễn trừ một cách hợp pháp khỏi nghĩa vụ nghỉ ngơi vào Chúa Nhật,” như Giáo Lý Công Giáo nói như vậy. (GLCG, số 2185). Tuy nhiên, Giáo Lý đưa ra điều kiện cẩn thận về việc cho phép này chống lại sự lạm dụng: “Các tín hữu phải đảm bảo rằng những lý do chính đáng [nghỉ làm việc] không dẫn đến những thói quen gây tổn hại đến tôn giáo, đời sống gia đình và sức khỏe.” (GLCG, số 2185)
Điều rất quan trọng là không chỉ Điều Răn Thứ Ba cấm lao động không cần thiết, và cũng ra lệnh “thờ phượng Thiên Chúa, niềm vui thích hợp trong Ngày của Chúa, thực hiện các việc bác ái, và sự thư giãn thích hợp của tâm trí và thể xác,” được thực hiện bằng cách ngừng làm việc. (Giáo Lý, số 2185)
Tuy nhiên, có nhiều cách mà những thú vui và thời gian nghỉ ngơi của ngày Chúa Nhật có thể không phù hợp hoặc quá mức. Ngày Chúa Nhật, chắc chắn chúng ta có thể xem và tham gia các môn thể thao cũng như các hoạt động giải trí khác, chẳng hạn như tham gia các chuyến du ngoạn và tham dự các sự kiện xã hội. Tuy nhiên, vào thời điểm nào và bằng cách nào, những thú vui này có thể cản trở hoặc làm giảm đi tinh thần sùng kính của Ngày Thánh? Trận bóng đá thứ hai trên truyền hình có thay thế được Kinh Mân Côi của gia đình hay không? Tuy nhiên, liệu một bộ phim có vẻ vô thưởng vô phạt lại ca ngợi những giá trị thuần túy thế tục hoặc bôi nhọ một cách tinh vi các giá trị của Đức Kitô thay thế việc đọc Kinh Thánh và lặng lẽ suy ngẫm hay không?
Chúa Giêsu nói: “Ngày sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát.” (Mc 2:27) Vì vậy, chúng ta không nên biến ngày sabát thành ngày của sự khổ hạnh hoặc sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa Cha cho sự an lành của chúng ta thành sự thử thách trừng phạt, nhưng chúng ta cũng không nên dành những ngày Chúa Nhật cho sự nuông chiều quá mức hoặc chủ yếu là trần tục, nếu không muốn nói là tục tĩu.
Cách đây gần hai thế kỷ, Đức Mẹ đã đến một ngôi làng nhỏ bé ở Pháp trên dãy núi Alps để nói với chúng ta – trong nước mắt ngày ấy và bây giờ – về điều có tầm quan trọng nhất: “Hãy nhớ ngày sabát, để giữ ngày đó là ngày thánh.” Chúng ta hãy ghi nhớ lời khẩn thiết của Mẹ Thiên Chúa, hãy tuân theo Điều Răn Thứ Ba của Ngài để Mẹ có thể giữ cho cánh tay nặng nề của Con Mẹ khỏi sự trừng phạt dứt khoát vì tội lỗi nặng nề... trong thời điểm quyết định này.
Abraham Lincoln (1809-1865, Tổng Thống thứ 16 của Hoa Kỳ) nhận định: “Khi chúng ta gìn giữ hoặc phá bỏ ngày Sabát, chúng ta cứu vớt hoặc cố ý đánh mất niềm hy vọng tốt đẹp cuối cùng mà nhờ đó con người có thể trỗi dậy.”
ALFRED HANLEY
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
*************
DI SẢN THÁNH THOMAS AQUINO
Thánh Thomas Aquino qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 khi đang trên đường đi dự Công Đồng Lyons, ngài qua đời ở tuổi 49 – tuổi “độc” mà người ta thường nói là “49 chưa qua, 53 đã tới.” Di sản thần học và triết học của ngài vẫn tiếp tục soi sáng Giáo Hội hoàn vũ ngày nay.
Từ “con bò câm” tới “tiến sĩ thiên thần” là quá trình “tiến hóa” khá ngoạn mục. Thánh Thomas sinh năm 1225 tại Aquino, gần Naples, trong một gia đình đông con người Ý. Ngài được các tu sĩ Đa Minh giáo dục. Ngài vào tập viện Dòng Thuyết Giáo năm 19 tuổi, bất chấp sự ngăn cản của cha mẹ.
Ngài tiếp tục được đào tạo ở Paris, sau đó ở Cologne, dưới thời Thánh Alberto Cả. Ở Cologne, ngài được bạn bè đặt cho biệt danh là “con bò câm” vì vóc dáng bệ vệ và tính cách ít nói. Ngài đã cống hiến cả đời cho việc giảng dạy đại học ở Pháp và Ý, cũng như viết tác phẩm vĩ đại là bộ Tổng Luận Thần Học – Summa Theologica, Summa Theologiae.
Thánh Thomas được Đức Gioan XXII tuyên thánh ngày 18 tháng 7 năm 1323, và được Đức Piô V tôn phong là Tiến Sĩ Giáo Hội năm 1567, và đó cũng là thời điểm ngài nhận danh hiệu “Tiến Sĩ Thiên Thần.”
TỔNG LUẬN THẦN HỌC
Bộ Tổng Luận Thần Học (TLTH) là tác phẩm vĩ đại nhất của Thánh Thomas Aquino. Đó là luận thuyết thần học và triết học trình bày một cách hệ thống toàn bộ giáo lý Kitô giáo.
Một tác phẩm quan trọng (với toàn bộ văn bản tiếng Latinh, có kích thước gấp ba lần Kinh Thánh), ban đầu nó được dự định để hướng dẫn các giáo sĩ trẻ và đào tạo liên tục cho các tu sĩ, linh mục và giáo dân. Tuy nhiên, nó vẫn có thể tiếp cận được đối với những người kém “tiến bộ” hơn, như Thánh Thomas nhấn mạnh trong lời mở đầu: “Người thầy về chân lý Công giáo không chỉ phải dạy những người có trình độ cao hơn mà còn phải hướng dẫn những người mới bắt đầu, theo lời của Thánh Phaolô Tông Đồ: ‘Đối với những trẻ nhỏ trong Chúa Kitô, tôi đã cho các bạn uống sữa chứ không phải thức ăn đặc.’ (1 Cr 3:1-2) Vì vậy, ý định trong cuốn sách này là giải thích những gì liên quan Kitô giáo theo cách thích hợp nhất cho việc đào tạo người mới bắt đầu.”
Khi trả lời 512 câu hỏi, Thánh Thomas cố gắng tổng hợp đức tin và đức khôn ngoan Kitô giáo một cách tổng thể. TLTH được chia thành ba phần: Phần đầu đề cập sự hiểu biết về Thiên Chúa là Một và Ba Ngôi; phần thứ hai dài hơn, mô tả hành động của con người như một sinh vật theo hình ảnh của Thiên Chúa; phần thứ ba nói về Chúa Kitô, cuộc sống của Ngài trên thế gian và các bí tích.
“NHƯ RƠM RÁC” ĐỐI VỚI NGÀI NHƯNG LÀ ÁNH SÁNG CHO VIỆC HỌC HỎI KITÔ GIÁO
TLTH được viết trong những năm cuối đời, ở đỉnh cao trưởng thành về trí tuệ, tượng trưng cho bảy năm làm việc. TLTH chưa hoàn thành vì sau khi trải qua cơn xuất thần trong Thánh Lễ ngày 6 tháng 12 năm 1273, Thánh Thomas đã ngừng viết. Mọi thứ ngài đã viết đối với ngài chỉ “như rơm rác” so với những gì ngài đã “được thấy.”
Mặc dù chưa hoàn thành nhưng TLTH đã có ảnh hưởng mạnh mẽ khắp Âu châu và vượt xa thời Trung Cổ. Sau 6 thế kỷ, vào năm 1879, Đức Lêô XIII tuyên bố rằng các tác phẩm của Thánh Thomas Aquino đã diễn tả đầy đủ giáo lý của Giáo Hội. Trong thông điệp Æterni Patris, Đức Lêô XIII viết: “Các giáo phụ ở Công Đồng Trentô đã quy định việc đặt TLTH của Thánh Thomas Aquino lên bàn thờ là một phần của mật nghị, cùng với Kinh Thánh và các sắc lệnh của các giáo hoàng tối cao, để tìm kiếm lời khuyên, lý lẽ và cảm hứng từ đó.”
Công Đồng Vatican II đã khuyến khích một cách rõ ràng việc nghiên cứu tư tưởng của ngài trong hai văn kiện, sắc lệnh Optatam Totius về việc đào tạo linh mục, và tuyên ngôn Gravissimum Educationis về giáo dục Kitô giáo.
TIẾN SĨ THIÊN THẦN
Thế kỷ 16, Thánh Thomas được phong tước hiệu “Tiến Sĩ Thiên Thần.” Nổi tiếng vì sự trong sạch (Đức Lêô XIII nhấn mạnh đến “sự chính trực hoàn hảo luân lý”) và được trời phú cho trí thông minh sáng chói, Thánh Thomas được so sánh với thiên thần. Trong tự sắc Doctoris Angelici, Đức Piô X đề cập đến “phẩm chất gần như thiên thần của trí tuệ ngài.”
Nhưng chắc chắn Thánh Thomas cũng có được phẩm chất này nhờ suy tư sâu sắc về các thiên thần. Ngài là người đầu tiên định nghĩa thiên thần là một sinh vật thuần túy phi vật chất, thuần túy tâm linh. Ngài cũng phát triển một học thuyết liên quan các thiên thần bản mệnh. Đối với Thánh Thomas, các thiên thần bản mệnh là những người bạn trung thành, những người bảo vệ cá nhân. Khi sinh ra, mọi người đều nhận được một vị giám hộ. Chừng nào họ còn là những người hành hương trên trái đất, là con người, bị đe dọa bởi nhiều mối nguy hiểm đến từ “trong và ngoài,” mỗi người đều được giao cho một vị giám hộ đặc biệt là “thiên thần bản mệnh.” (Summa I, 113, 4)
BỔN MẠNG CÁC TRƯỜNG HỌC
Ngày 4 tháng 8 năm 1880, qua Tông thư Cum Hoc Sit, Đức Lêô XIII đã tôn phong Thánh Thomas là thánh bổn mạng của các trường học Công giáo: “Sự bảo trợ của con người vĩ đại và thánh thiện này sẽ rất mạnh mẽ cho việc khôi phục các nghiên cứu triết học và thần học, đem lại lợi ích lớn lao cho xã hội. Vì ngay khi các trường Công giáo được đặt dưới sự hướng dẫn và giám hộ của Tiến Sĩ Thiên Thần, khoa học đích thực sẽ dễ dàng phát triển.” Đó là lý do rất nhiều trường Công giáo được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Thomas Aquino.
Đức Piô X thậm chí còn đi xa hơn khi thúc giục các giáo viên triết học người Ý dạy các nguyên tắc của học thuyết Thomas. Trong tự sắc Doctoris Angelici, ngày 29 tháng 6 năm 1914, ngài khuyến khích việc nghiên cứu triết học của Thánh Thomas Aquino tại các trường Công giáo: “Các nguyên tắc triết học do Thánh Thomas Aquino đặt ra phải được tuân thủ một cách tôn giáo và bất khả xâm phạm, vì chúng là phương tiện để đạt được kiến thức về sự sáng tạo phù hợp nhất với đức tin. Do đó, chúng tôi muốn tất cả các giáo sư triết học và thần học được cảnh báo rằng nếu họ đi chệch khỏi Thánh Thomas Aquino dù chỉ một bước, đặc biệt là trong siêu hình học, th họ đang tự đặt mình vào những nguy cơ nghiêm trọng.”
HỌC THUYẾT THOMAS
Đúng như tên gọi, học thuyết Thomas là trường phái tư tưởng được lấy cảm hứng trực tiếp từ các tác phẩm của Thánh Thomas Aquino, bao gồm hình thức của chủ nghĩa hiện thực triết học. Tính độc đáo trong tư tưởng nằm ở chỗ nó dung hòa được những thành tựu của tư tưởng Aristotle với những đòi hỏi của đức tin Kitô giáo.
Học thuyết Thomas nhấn mạnh sự gắn kết giữa đức tin và lý trí. Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh trong Fides et Ratio: “Trong thời đại mà các nhà tư tưởng Kitô giáo đang tái khám phá những kho tàng triết học cổ xưa, và đặc biệt hơn là của Aristotle, Thánh Thomas đã có công lớn khi dành sự tự hào về sự hòa hợp tồn tại giữa đức tin và lý trí. Ngài đã lập luận rằng ‘Cả ánh sáng của lý trí và ánh sáng của đức tin đều đến từ Thiên Chúa, do đó không thể có mâu thuẫn giữa chúng’.”
Qua nhiều thế kỷ, học thuyết Thomas đã mang nhiều hình thức, ít nhiều khác xa với những suy tư ban đầu được phát triển trong TLTH. Cuối thế kỷ 19, theo sáng kiến của Đức Lêô XIII, học thuyết Thomas được đổi mới trong một phong trào gọi là Tân Học Thuyết Thomas, đại diện quan trọng nhất là Jacques Maritain và Étienne Gilson.
THÁNH TÍCH
Thi hài của Thánh Thomas Aquino được đặt dưới bàn thờ cao trong nhà thờ của tu viện Đa Minh cũ ở Toulouse, Pháp. Một trong những thánh tích của ngài là hộp sọ được lưu giữ từ năm 1369 trong tu viện Jacobins ở Toulouse. Năm 2023, nó được giao cho Dòng Đa Minh Ville Rose trong ba năm, để kỷ niệm ba năm thánh: Kỷ niệm 700 năm tuyên thánh (1323), 750 năm ngày mất (1274) và 800 năm ngày sinh (1225) của ngài.
Người ta bắt đầu một loạt chuyến viếng thăm khắp nước Pháp, do Hiệp Hội Bách Chu Niên Thánh Thomas Aquino (ACTA – Association for the Centennial of St. Thomas Aquino) tổ chức. Theo sắc lệnh của Đức Phanxicô, ơn toàn xá được ban cho những tín hữu tôn kính các thánh tích này.
MATHILDE DE ROBIEN
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
▶ Tiến Sĩ Thiên Thần – https://youtu.be/CnqiiXQoDdE
▶ Thomas Tiến Sĩ – https://youtu.be/LC06szUbkzo