Nhảy đến nội dung

Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, chết là một mối lợi

“Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, chết là một mối lợi” (Pl 1, 21)

(Gợi ý giảng lễ an táng)

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Chúng ta đang hiện diện bên cạnh linh cửu của Ông Cố Phê-rô Nguyễn Thái Lam để dâng thánh lễ cuối cùng trên đất cho ông. Có hai thánh lễ, chưa giảng là mọi người đã biết là sẽ nói gì và biết luôn nội dung của linh mục chia sẻ Lời Chúa, đó lễ cưới và lễ cầu hồn. Dù biết vậy, nhưng chúng ta cũng cố gắng cùng nhau suy niệm một vài điểm để qua cái chết của Ông cố Phê-rô, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc cầu nguyện cho linh hồn ông cố Phê-rô mà chúng ta phải chuẩn bị cái chết của mình như thế nào. Vì hôm nay là người, ngày mai sẽ là tôi. Tham dự lễ cầu hồn hay lễ an táng hôm nay là dịp thuận tiện và tốt nhất để chúng ta suy về cái chết của chúng ta ngày mai để hôm nay chúng ta phải chuẩn bị hành trang gì và phải sống như thế nào?

Vì vậy, tôi muốn cùng với quý cộng đoàn phụng vụ suy niệm về câu nói của Thánh Phaolô gửi cho cộng đoàn Philipphe: “ Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, chết là một mối lợi” (Pl 1, 21)

Tại sao sống là Đức Ki-tô? Tại sao chết lại là một mối lợi?

Quả thật, kính thưa quý obvace, Thánh Phaolo đã nghiệm ra một điều chắc chắn rằng sự sống của thánh nhân chỉ tồn tại khi ngài thuộc về Đức Ki-tô và sống trọn vẹn cho Đức Ki-tô. Đức Giê-su Ki-tô, nguồn mạch sự sống xuất phát từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã vâng lời Chúa Cha để làm người, mang bản tính loài người, giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Ngài đến trần gian để nhằm cứu độ loài người thoát khỏi đau khổ và sự chết. Ngài hiện diện là Thiên Chúa hiện diện. Ngài ở đâu thì ân phúc và lòng thương xót của Thiên Chúa được thực hiện và toả lan. Chỉ nơi Ngài và trong Ngài, con người mới được sống và được cứu. Ngoài danh Ngài không có danh nào có thể đem lại ơn cứu độ cho con người. Trong thời gian 33 năm trên dương gian, Đức Giê-su đã luôn mong muốn con người được hạnh phúc và bình an. Mục đích Ngài đến là để cho con người được sống và sống dồi dào, nên Ngài đã yêu đến tận cùng như Thánh Gioan Tông Đồ đã khẳng định: Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. (Ga 3, 16). Ngài đã để lại điều răn yêu thương để ai yêu thương thì nên giống như Ngài. Điều đặc biệt nữa, Ngài đã lập Bí tích Thánh Thể, là chấp nhận trao ban Mình Máu Ngài để cho những ai tin và đón nhận thì sẽ được sống đời đời. Chính Ngài đã mời gọi: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời; bánh Tôi sẽ ban, chính là thịt Tôi, để cho thế gian được sống”. (Ga 6, 51). Như vậy, sự sống của chúng ta là từ Chúa. Mỗi ngàiy chúng ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng nhờ Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa. Ý thức được điều đó, Thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu sắc khi thốt lên: Đối với tôi, Sống là Đức Ki-tô, Hay nơi khác, “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, nhưng Ngài là Đức Ki-tô, Ngài đang sống trong tôi.” (Gl 2, 20).

Mặt khác, không chỉ thánh nhân đã cảm nhận ‘Sống là Đức Ki-tô’ nhưng ngài còn khẳng quyết: ‘Chết là một mối lợi”. Tại sao chết lại là một mối lợi? Chết là hết cơ mà! Chết là một sự thất bại đối với con người cơ mà! Chết đối với thánh Phaolô là về với Đức Ki-tô, được hưởng hạnh phúc thiên đàng, tại sao không là một mối lợi? Mối lợi không là của cải, không là tiện nghi vật chất, nhưng là sự sống đời đời, sự sống hưởng kiến tôn nhan Chúa. Adam cũ, đã phạm tội và đem lại hậu quả là cái chết cho con người. Nhưng Adam mới là Đức Giê-su Ki-tô đã đến để giải thoát và cứu sống con người khỏi chết muôn đời. (x.1 Tx 5,10). Đức Giê-su đã chết vì tội lỗi chúng ta (x.1 Cr 15,3) để làm hy lễ xá tội (x.Dt 9). Cái mối lợi đỉnh cao và tuyệt hảo là nhờ Đức Giê-su Ki-tô chết để chúng ta được hoà giải với Chúa Cha (Rm 5,10). Chính Ngài đã chiến thắng tử thần bằng sự Phục sinh vinh hiển. Nhờ mối lợi này mà chúng ta tin rằng chết là sự sống thay đổi chứ không mất đi. Chết để được về cùng Chúa (x.Pl 1,23). Chết để an nghỉ trong Chúa. (x.Dt 4, 10-11).

Vì thế, kính thưa, như Chúa Giê-su đã phán:“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt.” (Ga 12,24), cũng vậy, chết như là một định luật: không trừ một ai và không ai chết thay cho ai. Có chết mới có sống đời đời là vậy. Sự mất cái này để sinh ra cái mới hơn, chẳng hạn kết đời con sâu thì chào đời con bướm. J.L Mc Creery đã từng nói: “ chẳng có gì mất cả. Những vì sao lặn xuống để rồi mọc lên sáng hơn ở bờ bên kia.” Do vậy, chết để được sống muôn đời.(x.Ga 3,16). Chúng ta phải trải qua cái chết cùng với Đức Ki-tô, chúng ta mới được sống lại với Ngài (x.2Tm 2,11). Ông cố Phê-rô đã sống 85 năm làm người, làm con Chúa, ông đã sống hết mình vì vợ vì con, vì đất nước trong thời cuộc lịch sử khó khăn, vì đức tin cũng như sự tồn vong của cộng đoàn Giáo xứ Quan Lãng…Vì tin nên ông đã sống hết mình. Vì Chúa, ông đã chấp nhận hy sinh tất cả để nuôi dạy con cái lớn khôn và thành đạt. Ông bà đã quảng đại dâng 2 người con cho Chúa và Giáo hội. Một linh mục cho Hội Dòng Thánh Tâm Huế và một nữ tu cho Dòng Phaolo Đà Nẵng. Một đời ông đã tin vào Chúa qua việc năng tham dự thánh lễ để đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa Giê-su, của ăn thiêng liêng nuôi ông sống và dẫn ông về thiên đàng. Tuy nhiên, là thân phận con người tội lỗi, nhân vô thập toàn, ông cố Phê-rô chắc chắn đã không thể tránh khỏi những yếu đuối, lỗi phạm đến Chúa và tha nhân. Giờ này hơn bao giờ hết, Ông cố Phê-rô không thể tự mình lập công chuộc tội, nhưng ông cần đến lòng bác ái, sự hi sinh của mỗi người, nhất là trong thánh lễ này, để xin Chúa thương tha thứ những lỗi lầm mà ông cố Phê-rô đã vương lấm đến Chúa, đến tha nhân để Ông được sớm hưởng tôn nhan Chúa.

Còn chúng ta, là những người sẽ chết đang hiện diện cầu nguyện cho người đã chết, cụ thể là ông cố Phê-rô đây, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc cầu nguyện cho ông cố Phê-rô, nhưng mỗi người được mời gọi suy về cái chết của mình trong tương lai để sống tốt giây phút hiện tại. Chúng ta phải thú nhận rằng có ai đó trong chúng ta đang sống nhưng xem ra đã chết. Sự chết nấp dưới vỏ bọc của sự sống. Chúng ta sống nhưng đang chết vì rượu chè say sưa, chết vì buông tha vô luân, chết vì phim ảnh đồi truỵ, chết vì tham lam ích kỷ, chết vì sự độc ác gian tà, chết vì lợi lộc vinh hoa, chết vì thú vui nhục dục, …Chúng ta đang sống nhưng thực ra chúng ta đang chết dần chết mòn. Chính vì thế, để được sống muôn đời với Chúa sau khi lìa khỏi lữ hành trần gian này, bây giờ và hiện tại, chúng ta phải chấp nhận chết: chết cho thói hư tật xấu, chết cho lối sống tiêu cực, chết cho lòng tham lam quá độ, chết cho những hào nhoáng và giả tạo bên ngoài, chết đi những cái riêng tư ích kỷ,…

Quả thật, kính thưa,

Tham dự thánh lễ an táng hôm nay, chúng ta được nhắc nhở rằng: hôm nay ông cố Phê-rô chết, thì ngày mai sẽ đến lượt tôi. Chính vì thế, tôi phải làm gì để chuẩn bị cho cái chết của tôi vào ngày mai?

Chúa Giê-su cảnh tỉnh chúng ta: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21, 34-36) Cũng vậy, Thánh Phê-rô đã mời gọi“Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8). Chúng ta không biết chúng ta sẽ được Chúa gọi giờ nào, ngày nào, nhưng có một điều chắc chắn là chúng ta sẽ chết, nên chúng ta phải chuẩn bị hành trang để sẵn sàng ra đi theo lời mời gọi của Chúa. Người khôn ngoan nhất là người luôn nghĩ về cái chết của đời mình để sống tốt hơn ở hiện tại, để giảm bớt tham lam ích kỷ nhưng luôn biết sống quảng đại yêu thương tha nhân hơn. Biết rằng mình sẽ chết vào ngày mai, thế thì hôm nay mình bon chen về đất đai làm gì? Sống với nhau như hổ báo, hận thù, ghen ghét, tranh giành đất vườn, đất nghĩa trang, cây cối, của cải vật chất,…những thứ đó không mang theo được khi chúng ta ngã xuống sao cứ mải mê giành dật sinh ra mất tình cảm anh em, cha con, tình làng nghĩa xóm. Nhưng chúng ta chỉ mang đi được lòng người, đó là lòng nhân hậu bao dung, yêu thương tha thứ, là lòng bác ái, lòng chân thành, đức công bằng, là việc lành phúc đức,..đây là những thứ mà chúng ta cần vun đắp, xây dựng và tích trữ hằng ngày để mang theo sau khi lìa khỏi trần gian này. Đây mới là của cải thiêng liêng không bị mối mọt ăn. Đây là những hành trang đẹp lòng Chúa và là quyết định phần thưởng hạnh phúc Nước Trời mai sau.

Quả thật, khi suy niệm về sự tỉnh thức hay suy về sự chết ngày mai, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cũng viết như sau: “Nếu bạn có một sự tỉnh thức hoàn hảo về sự chết thì bạn sẽ nỗ lực tự tháo gỡ mình ra khỏi các đối tượng trói buộc bằng cách vất bỏ những thứ sở hữu và coi mọi sự thành công thế tục như không có bất kỳ bản chất hay ý nghĩa nào. Đức Milarepa cho thấy chẳng sớm thì muộn bạn phải bỏ lại mọi sự sau lưng, thì tại sao không từ bỏ nó ngay bây giờ? Tỉnh thức về sự chết cho ta khám phá ra ý nghĩa cuộc đời, và cảm thấy hoan hỉ khi giờ chết tới gần mà không chút hối tiếc. Nếu ta cứ tránh né nỗi sợ chết thì khi chết, chúng ta sẽ bị trói chặt bởi nỗi ân hận”.

Cũng vậy, vị đan tu tên là Mésique, khi hấp hối sắp chết, ông đã thều thào nói những lời cuối cùng với các anh em như sau: “Tôi chỉ khuyên anh em một bài học mà tôi đã cảm nghiệm và rút ra được sau 12 năm thinh lặng để sám hối trong căn phòng kín này là: ai luôn ý thức mình sẽ chết thì sẽ không còn cố tình phạm tội nữa”. Câu chuyện sau đây như muốn diễn tả sự khôn ngoan là biết lo xa cho tương lai của mình:

Thánh Đamascênô kể lại một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ, đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ mọi quyền lực, điều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng.

Năm ấy có một vị vua lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngoan hơn những người đi trước. Trong thời gian trị vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện, biến rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.

Chúng ta thầm khen:

– Ông vua này quả là thận trọng và khôn ngoan.

Hãy bắt chước ông vua ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của chúng ta.

Linh mục Phaolô Phạm Trọng Phương