Đức Vua đau khổ - Viết chữ YÊU
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Trầm Thiên Thu
ĐỨC VUA ĐAU KHỔ
Vua Muôn Vua – Thiên Vương Đệ Nhất
Chúa Các Chúa – Tạo Hóa Toàn Năng
Chúa Giêsu là Vua nhưng không lễ đăng quang, không ngai vàng, không vương trượng, không vương miện, không long bào,… như các vua chúa trần gian. Ngài là Vua-đa-không, và cũng chẳng được tiền hô hậu ủng, mà chỉ có những lời phản đối, chế giễu, nhạo báng,...
Qua trình thuật Lc 23:35-43, Thánh Luca kể lại giây phút “đăng quang” đặc biệt của Vua Giêsu: Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái.”
Vua Giêsu bị sỉ nhục đến tột cùng, nhưng Ngài vẫn im lặng. Sự im lặng của Ngài khiến những kẻ thủ ác hả hê và ngạo nghễ, tưởng mình đã chiến thắng. Sự kiêu ngạo thật tồi tệ! Không chỉ có thế, chính một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Ngài: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Đúng là kẻ hợm hĩnh già mồm. Chết đến nơi mà còn hống hách với người khác.
Nghe “ngứa tai” nên tên kia lên tiếng mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Xấu thì xấu, dữ thì dữ, ác thì ác, nhưng tâm hồn của anh ta không như dáng bặm trợn bề ngoài. Và rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Chúa Giêsu nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Tướng cướp khét tiếng Dismas với đời mà thật diễm phúc hơn ai hết.
Tội tày trời, cả đời không hề tỏ ra chút xót thương bất cứ ai, coi trời bằng vung, có lẽ chẳng ai dám “chơi ngông” như Dismas. Chỉ một lời sám hối chân thành, mọi tội lỗi của anh ta được Vua Giêsu xóa bỏ hết, gã được trắng án, không phải vô Luyện Hình, mà được cùng Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay đêm hôm đó. Vua Giêsu nhân hiền và đại lượng ngoài sức tưởng tượng của loài người. Điều này nhắc nhở chúng ta đừng tuyệt vọng, dẫu có đôi khi cảm thấy thất vọng theo bản tính phàm nhân, hãy vững tin vào Lòng Chúa Thương Xót vô tận.
Nếu thất vọng về tình trạng tội lỗi của mình, đó là một dạng kiêu ngạo, vì không tin vào ơn tha thứ của Thiên Chúa. Vì thế, hãy vững tin, vì chính Chúa Giêsu đã xác định với Thánh Faustina: “Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới.” (Nhật Ký, số 1485) Và Ngài hứa: “Không một linh hồn nào kêu gọi Lòng Thương Xót của Ta mà phải thất vọng bao giờ.” (Nhật Ký, số 1541) Lời hứa đó đã, đang và sẽ được áp dụng với bất cứ tội nhân nào chân thành sám hối, mãi cho đến tận thế.
Lễ Chúa Kitô Vua nhắc nhở những người có chức quyền điều rất quan trọng qua lời Chúa Giêsu xác định với Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.” (Ga 19:11) Đừng tưởng có “quyền” rồi thì mặc sức “hành” người khác, vả lại “quyền” gì cũng có “hạn” – Việt ngữ thâm thúy khi gọi là quyền hạn. Mọi người đều là tôi tớ, Chúa Giêsu nói rõ: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.” (Lc 12:47-48)
Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa của anh em là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, xử công minh cho cô nhi quả phụ, yêu thương ngoại kiều, và cho họ bánh ăn, áo mặc.” (Đnl 10:17-18) Thiên Chúa là Vua Hòa Bình, Vua Công Lý, Vua Lòng Thương Xót, và mọi quyền hành đều phát xuất từ Ngài. Đặc biệt là Ngài chí công, nghiêm minh khi thưởng – phạt. Vua Giêsu là Thiên Chúa, thế mà Ngài đã đi trọn con đường đau khổ mới có thể đạt tới Vương Quốc vinh quang, vĩnh hằng, chắc chắn chúng ta không thể đi bất cứ một con đường nào khác!
Người ta ví von rằng “hạnh phúc giống như chiếc đồng hồ, loại ít phức tạp thì ít hư hỏng, loại càng đơn giản thì càng bền. Dù ít hay nhiều, hạnh phúc nào cũng có nước mắt, loại chất lỏng có vị mặn chát. Tình yêu càng nhiều đau khổ, niềm hạnh phúc càng chan chứa. Cuộc sống cũng tương tự, hầu như đó là nguyên lý cuộc đời.
Sự sống và sự chết liên quan lẫn nhau. Sống mà cứ coi như mình sắp chết để có thể tránh nhiều thứ phiền toái, và thật kỳ lạ, chính cái chết lại là ngưỡng bước vào sự sống. Vinh quang và đau khổ là hai lĩnh vực trái ngược nhau nhưng lại liên quan lẫn nhau. Đức Kitô là Sự Sống, (Ga 14:6) tức là Nguồn Sống, bất cứ ai muốn đến với Chúa Cha đều phải đi qua “con đường của sự sống” ấy, không thể không “đi qua” chính Đức Kitô Giêsu.
Ngài là chính sự sống mà lại bị người ta giết chết, nhưng rồi Ngài đã chiến thắng Tử Thần và phục sinh vinh hiển, và mãi mãi Tử Thần phải thần phục Ngài. Ngài là Vua của muôn loài, và Ngài được Chúa Cha trao quyền xét xử muôn loài, ngay cả Satan cũng phải xuất đầu lộ diện mà trình diện Ngài: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa.” (G 2:1)
Trình thuật ngắn gọn 2 Sm 5:1-3 cho biết: Toàn thể các chi tộc Israel đến gặp vua Đavít tại Khéprôn và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Saun làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Israel.” Đức Chúa đã phán với ngài: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel.” Toàn thể kỳ mục Israel đến gặp vua tại Khéprôn. Vua Đavít lập giao ước với họ tại Khéprôn, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đavít làm vua Israel.
Thời Cựu Ước, Quốc Vương là hình bóng tiên báo về Vị Thiên Vương Tối Cao thời Tân Ước là Đức Giêsu Kitô. Điều tiên báo từ ngàn xưa đã ứng nghiệm từ hai ngàn năm qua: Đức Kitô đã đến thế gian. Và chính Ngài cũng đã xác định: “Ai NGHE lời tôi và TIN vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5:24) Vua chúa trần gian có thể hét ra lửa, xử sao nên vậy, nhưng chỉ là cho sống hoặc bắt chết về phần xác mà thôi, còn Thiên Chúa là Chúa của các chúa, Vua của các vua, đặc biệt là Ngài “có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10:28) Tử Thần còn khuất phục thì không ai có thể trái lệnh Ngài!
Chúng ta được là thần dân của Thiên Vương Giêsu, Thánh Vương Kitô, thật là hạnh phúc biết bao! Không thể có niềm hạnh phúc nào khác khả dĩ so sánh được với niềm hạnh phúc mà chúng ta đang được tận hưởng. Khi vui mừng, chắc chắn người ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng ấy được. Thánh Vịnh gia cũng người trần mắt thịt, thế nên không thể không bày tỏ hạnh phúc: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!’ Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân.” (Tv 122:1-2)
Nhà Chúa luôn linh thiêng, khó diễn tả bằng phàm ngôn, vì đó là Nhà Cầu Nguyện. Giêrusalem là hình bóng của Thánh Đô Thiên Quốc. Dù là Đền Thờ nơi trần gian nhưng vẫn được xây dựng một cách đặc biệt. Thánh Vịnh gia mô tả: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Israel. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đavít.” (Tv 122:3-5)
Từ ngàn xưa đến muôn đời, Đức Giêsu Kitô là Vua cả vũ trụ, cả càn khôn, cách riêng Ngài là Vua của cuộc đời mỗi chúng ta. Hãy không ngừng tôn vinh Ngài: “Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mc 11:10) Với diễm phúc này, chúng ta có dành cả đời để dâng lời cảm tạ cũng không đủ. Mong ước chúng ta được tiếp tục là thần dân của Ngài nơi Thiên Quốc Vĩnh Hằng để chúc tụng Ngài đời đời. Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, hạnh phúc tăng theo cấp số nhân. Niềm vui quá lớn, hạnh phúc dạt dào. Thật khó tả!
Với kinh nghiệm từng trải và bằng cảm nghiệm tâm linh sâu sắc, Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta ĐƯỢC ơn cứu chuộc, ĐƯỢC thứ tha tội lỗi.” (Cl 1:12-14) Quả thật, tội nhân chúng ta có mơ cũng chẳng thấy, thế nhưng không phải là mơ mà là sự thật.
Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng NHỜ Người và CHO Người.” (Cl 1:15-16) Được làm thụ tạo là hạnh phúc lắm rồi, nhưng chúng ta không chỉ là thụ tạo mà còn được làm người, hơn hẳn các loài thực vật, sinh vật và động vật, đặc biệt còn được làm con cái của Thiên Chúa. Điều đó được chứng minh qua hằng ngày, chúng ta hãnh diện được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ: “Lạy Cha (của) chúng con, Đấng ngự ở trên trời,…” Thật là trên cả tuyệt vời, diễm phúc vô cùng!
Thánh Phaolô cho biết: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1:17-20)
Chúa Giêsu là Huynh Trưởng, còn tất cả chúng ta là những tiểu đệ và tiểu muội của Ngài. Ngài là Vua, vậy chúng ta là em của Vua, nghĩa là chúng ta thuộc Hoàng Gia. Đặc biệt hơn, chúng ta còn được hòa tan vào Vua Giêsu Kitô, nên một với Ngài mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể. Vô cùng kỳ diệu, trí óc phàm nhân không thể hiểu thấu.
Đức Vua Kitô đau khổ, chúng ta cũng phải đau khổ. Ngài đã chết và phục sinh vinh quang, chúng ta cũng vậy. Quả thật, Thánh Phaolô nói: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.” (2 Tm 2:11-12)
Lạy Thánh Phụ, xin ban thêm những ơn cần thiết để chúng con sống xứng đáng là con cái của Ngài, xin tha thứ những lần chúng con yếu đuối. Xin ban Thần Khí hướng dẫn chúng con đi đúng hướng Ngài muốn. Chúng con cầu xin nhân danh Thiên Vương Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
========
VIẾT CHỮ YÊU
Bất Khuất Da Vàng Tin Kính Chúa
Hào Hùng Máu Đỏ Mến Yêu Người
Các thánh tử đạo Việt Nam đã viết nên trang sử hào hùng bằng chính đức tin kiên cường, không khuất phục trước sức mạnh trần thế, mọi đau khổ đều là “không” đối với các ngài – dù nhỏ tuổi hay lớn tuổi, bởi vì “không có gì tách được các ngài ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.” (Rm 8:39)
Máu duy trì sự sống bằng cách không ngừng từ Trái Tim – Trung Tâm Phân Phối Sự Sống – chuyển giao đi khắp cơ thể. Máu có vài loại máu, nhưng chung quy vẫn là sự sống. Tim còn đập là còn sự sống, tim ngừng đập là chết. Máu có màu đỏ tươi, màu của Tình Yêu Thương. Sự Sống và Yêu Thương chính là hiện thân của Thiên Chúa – Đấng là Nguồn Sống và Tình Yêu.
Người Việt ví von thâm thúy: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã.” Chỉ “một giọt máu” mà hơn cả “ao nước” thì biết máu quý thế nào rồi. Máu là chất lỏng bình thường mà khác thường. Bình thường vì máu chỉ là một trong các loại chất lỏng, khác thường vì máu giúp duy trì sự sống. Người ta có Ngân Hàng Máu, và rất cần những người hiến máu. Những Giọt Hồng bình thường đó trở thành những Giọt Tình, trao tặng sự sống cho người khác. Thật cao quý!
Theo y học, có khoảng 46 nhóm khác nhau, nhưng những nhóm chính là O, A, B, AB và yếu tố Rhesus (Rh, có Rh+ và Rh-). Trong đó, máu O có thể cho bất cứ loại máu nào nhưng chỉ nhận cùng loại máu; còn máu AB có thể tiếp nhận mọi loại máu. Vì những lý do chưa được khám phá, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Một nhóm máu hoàn chỉnh có thể bao gồm một bộ 30 chất trên bề mặt của các RBC (red blood cell - hồng cầu), và một nhóm máu của cá thể là một trong những sự kết hợp của một số kháng nguyên nhóm máu. Trong số 30 nhóm máu, có hơn 600 chất kháng nguyên (phân tử kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể, sản sinh kháng thể) nhóm máu khác nhau đã được phát hiện, nhưng đa số trong chúng rất hiếm hoặc chủ yếu được tìm thấy trong các nhóm bộ tộc nhất định.
Mỗi người chỉ có một cuộc đời, một lần sống, và tất nhiên cũng chỉ có một lần chết, hơn thua nhau là biết sống khôn ngoan hay không. Chắc chắn rằng sự sống rất quý giá. Vòng luân hồi chỉ là chuyện “không tưởng” – vừa giả tưởng vừa ảo tưởng. Cuộc sống không quan trọng ở chiều dài mà quan trọng ở chiều sâu. Ai cũng chỉ có một cuộc đời nhưng số phận có thể khác nhau, Kinh Thánh phân biệt số phận của người công chính và số phận của phường vô đạo.
Trong Nhóm Mười Hai có đến 10 vị Tông Đồ tử đạo, chấp nhận máu đổ ra để minh chứng Đức Tin, trừ người-môn-đệ-Chúa-yêu là Gioan và tông đồ phản bội là Giuđa Ítcariốt. Cái chết oanh liệt đó là Mối Phúc thứ tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10) Chính Chúa Giêsu còn nói thêm để tái xác định và chứng minh: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:11-12)
Trong thời gian bị bách hại, Giáo hội tại Việt Nam vẫn như đứa trẻ mới thôi nôi, còn nhỏ bé nhưng kiên cường bất khuất trước bạo quyền. Trải dài khoảng 300 năm, qua sáu triều vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức, Giáo hội tại Việt Nam bị bách hại triệt để, nhưng hơn một trăm ngàn người đã minh chức hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn mạnh. Tiền nhân của chúng ta chịu tra tấn đủ kiểu – nào là “bào cách” (trói vào cột lửa cho đến chết), nào là “tẫn hình” (cắt xương bánh chè), nào là “xử giảo” (treo cổ), nào là “lăng trì” (tùng xẻo, lóc thịt theo tiếng cồng chiêng), và còn nhiều cách khác như xỏ mũi, xâu tai, phanh thây, voi giày, ngựa xéo,...
Ác nhân mưu mô dụ đủ chiêu, nói rằng cứ giả vờ bước qua Thánh Giá, nhưng tiền nhân dứt khoát không giả vờ. Họ còn dụ rằng ông Phêrô chối Chúa ba lần mà còn được chọn làm trưởng Hội Thánh, nhưng tiền nhân cũng không xiêu lòng. Đó là bài học sống đức tin cho chúng ta hôm nay: Đặt mình trước Thánh Giá và quyết tâm chọn lựa dứt khoát như Thánh Phaolô: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Gl 6:14)
Theo lịch sử, từ thế kỷ 17 tới 19, Việt Nam theo chế độ quân chủ chuyên chế, vua là thiên tử (con trời) nên có toàn quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Nho giáo quan niệm như vậy. Vua cho sống thì được sống, bắt chết thì phải chết, ai không chết là bất trung. Các vị Tử đạo Việt Nam đã giới thiệu một nền dân chủ trong đó người dân làm chủ đất nước, vua chỉ là người đại diện Thiên Chúa điều hành đất nước mà thôi, và mọi người đều là anh em với nhau, theo kiểu nói “huynh đệ chi binh.” Không ai có quyền sát nhân vì Thiên Chúa là Chủ nhân của sự sống, nhưng chính Đức Giêsu đã chết cho nhân loại, dù Ngài là Thiên tử. Quan nhất thời, dân vạn đại. Chính phủ nào không vì dân thì không thể tồn tại. Dân làm chủ đất nước chứ không phải vua chúa hoặc tổng thống, chính quyền. Thế nên các thánh nhân đã can đảm chết cho giá trị của Nền Dân Chủ cao quý để bảo vệ Chân Lý và Công Lý.
Bất cứ ai tin nhận Đức Kitô đều bị người ta ghen ghét, đúng như Ngài đã nói trước: “Người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy.” (Mt 24:9; Mc 13:9; Lc 21:12)
Mỗi thời có kiểu bách hại riêng, càng ngày càng tinh vi hơn. Thời Cựu ước, sách Macabê 2 kể rằng có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua Antiôkhô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm.
Chính mắt bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Hẳn là rất hiếm có bà mẹ nào như vậy. Bà thực sự can đảm, đúng là bà yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chỉ là lời lẽ của một phụ nữ, nhưng lại đầy chí khí nam nhi khi bà khuyến khích từng đứa con: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.” (2 Mcb 7:22-23) Lý lẽ đầy xác tín và tràn trề hy vọng, không hề ảo tưởng. Những người không có niềm tin Kitô giáo chắc hẳn cho ai hành động như vậy là ngu xuẩn, là điên rồ. Bà mẹ này là người rất đáng khâm phục và kính nhớ.
Thật tuyệt vời khi bà nghiêng mình về phía con trai, vẫn hiên ngang chế nhạo tên bạo chúa, và âu yếm nói với con trai: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.” (2 Mcb 7:27-29)
Thân nữ nhi thường tình, phận liễu yếu đào tơ, nhưng đức tin của bà rất vững vàng! Những lời lẽ của bà chứa đầy kiến thức Kitô giáo và tràn đầy Thần Khí. Bà phân tích giản dị nhưng mạch lạc, với lý lẽ cứng rắn và rạch ròi. Thật đáng khâm phục một nữ nhi mà có tấm lòng rắn như thép. Hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam cũng đã từng không “tham sanh, úy tử,” không chịu “giá áo, túi cơm,” không hèn nhát trước những ác nhân, mà vẫn hiên ngang làm chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô đến giọt máu cuối cùng!
Từ cổ chí kim, thời nào cũng thế, các tôi trung luôn đặt trọn niềm vui và hy vọng vào Thiên Chúa, hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Họ đã THEO ĐẠO và cương quyết GIỮ ĐẠO, đặc biệt là can đảm SỐNG ĐẠO dù bị cấm cản đủ cách. Chuyện tất yếu như một quy-luật-muôn-thuở: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.” (Tv 126:5) Chắc chắn là vậy. Các vị tử đạo đã “nhìn thấy” phía sau những gì đang xảy ra với chính mình trong giây phút hiện tại: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126:6) Hy vọng của họ bừng sáng mà không ai hoặc không gì có thể dập tắt!
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.” (Rm 8:31-36)
Theo tầm-nhìn-thế-gian, gian truân và nguy hiểm là những chướng ngại vật phải tránh cho xa, càng tránh được nhiều thì càng tốt. Nhưng theo tầm-nhìn-Kitô-giáo, những thứ đó không là chướng ngại vật mà là “đòn bẩy” đưa người ta lên cao vút, tới tận nơi Thiên Chúa ngự. Thánh Phaolô cho biết thêm: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:37-39)
Thật đúng như vậy, đơn giản như đôi nam nữ yêu nhau, cha mẹ càng cấm thì họ càng yêu nhau mãnh liệt. Có những người “yếu bóng vía” và không có niềm tin Kitô nên họ đã tự tử. Tuy nhiên, người thất tình là người yêu mạnh lắm. Và thật lạ, đại văn hào Victor Hugo (1802-1885, Pháp) đã nhắn nhủ: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa. Chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chỉ có những người yêu thật mới khả dĩ hiểu nổi, không thì sẽ cho là “bị chạm thần kinh” ở cấp độ nặng!
Bất cứ thời nào cũng có bách hại tôn giáo, chỉ khác ở cách thức và mức độ. Ngày xưa, Chúa Giêsu đã tiên báo những cuộc bách hại: “Hãy COI CHỪNG người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10:17-18) Ngài biết chúng ta sẽ lo lắng nên Ngài căn dặn: “Khi người ta nộp anh em thì anh em ĐỪNG LO phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, KHÔNG PHẢI chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” (Mt 10:17-20) Chúa Thánh Thần luôn hoạt động mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi người. Một sự thật vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, và chỉ những ai có đức tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được điều này.
Tất cả những người yêu mến Chúa, bất luận nam-phụ-lão-ấu, đều bị chống đối và bị ghét bỏ bằng cách nào đó, không chỉ đối với người ngoài mà đối với cả những người thân và bạn hữu, thậm chí là ngay trong gia đình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:21-22) Máu của các vị tử đạo đúng là Máu Đào thực sự. Đó là những Giọt Tình vô giá!
Chúng ta thấy có vẻ lạ lùng khi xảy ra những chuyện như vậy, nhưng thực ra cũng chỉ là chuyện bình thường, sự thể vốn dĩ mà thôi. Vấn đề là chúng ta có can đảm sống đúng theo lý tưởng Đức Kitô hay không. Đó cũng là một dạng tử đạo: Tử đạo liên lỉ từng ngày trên đường lữ hành trần gian. Tử đạo kiểu nào cũng có cái khó khăn riêng, chẳng có cách tử đạo nào dễ dàng!
De Giradin nói: “Tình yêu chỉ sống được nhờ đau khổ. Sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết dần mòn.” Có thể có chút cường điệu, nhưng đó là điều mà chúng ta phải công nhận. Chính đau khổ và hy sinh mới chứng tỏ tình yêu chân thật hay không. Bussy Rebutin so sánh: “Tình yêu trong xa cách ví như ngọn lửa trong gió, gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ và thổi bùng ngọn lửa lớn.” Đó là cách ví von về tình yêu đôi lứa, nhưng vẫn có ý nghĩa đối với các dạng tình yêu khác, kể cả tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa.
Máu Thánh của Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ đó mà có nhiều người không “tham sanh, úy tử,” dám liều mạng sống vì Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Việt Nam là quốc gia có hằng trăm ngàn nhân chứng đức tin đã xả thân vì đức tin Kitô giáo. Các ngài cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng có cách sống khác thường, dù thời đó Việt Nam mới nhận biết đức tin Kitô giáo chưa được bao lâu.
Thánh Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, thế nhưng đức tin của “chàng trai trẻ” đã trưởng thành nên mới có thể thí mạng vì Đức Kitô khi mới 19 tuổi đời. Thánh Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra lệnh xử trảm, Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm.” Và còn hằng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam đã chết vì Đạo Chúa, điều mà Đức Kitô đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Đó cũng là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10) Với người đời, những cái chết đó là dại dột, là ngu xuẩn; nhưng với Thiên Chúa lại là sự khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10:28)
Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa.” (Kn 3:1) Đối với những người yêu Chúa thì đau khổ chẳng nghĩa lý gì. Như kiểu nói của người Việt là “gậy ông đập lưng ông,” tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử.” (Kn 3:2-4) Tất cả xem chừng là những nghịch lý, nhưng lại là nghịch-lý-thuận.
Mọi khổ hình dã man nhất của loài người đối với các nhân chứng đức tin cũng chỉ là cách “chịu sửa dạy đôi chút,” và rồi “họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao.” (Kn 3:5) Đó mới là mục đích của họ! Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Ngài: “Ngài đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy.” (Kn 3:6-7) Rồi họ sẽ được quyền “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước,” chính “Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời.” (Kn 3:8) Thiên Chúa giúp họ lật lại thế cờ, chuyển bại thành thắng, đúng như lời Chúa hứa: “Những ai trông cậy vào Ngài, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Ngài yêu thương và cho ở gần Ngài, vì Ngài ban ân phúc và xót thương những ai Ngài tuyển chọn.” (Kn 3:9)
Chúa Giêsu xác định: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 9:23) Điều kiện “theo Chúa” vừa dễ, vừa khó. Lửa tình của ai mạnh thì là dễ, nhưng lửa tình của ai yếu thì là khó. Chính người đời cũng ví von: “Tình yêu trong cách xa như ngọn lửa trong gió: Gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ, nhưng thổi bùng ngọn lửa lớn.” Ngài nói thêm: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân thì nào có lợi gì?” (Lc 9:24-25) Cách nói “nghi vấn xác định” là cách xác định hơn, làm nổi bật ý chính.
Và Ngài kết luận: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.” (Lc 9:26) Rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu. Các thánh tử đạo Việt Nam đã hãnh diện hiến dâng mạng sống vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà các ngài đã tín thác suốt đời.
Dù muốn hay không thì ai cũng phải tự viết “bia mộ” cho chính mình, viết ngay từ lúc sinh thời. Các thánh tử đạo Việt Nam đã viết “bia mộ” cho chính mình bằng máu, và viết chữ YÊU trên “bia mộ” cuộc đời các ngài.
Lạy Thiên Chúa, Nguồn Sống của chúng con, xin giúp chúng con biết duy trì và bảo vệ sự sống, biết sống kiên trung và sẵn sàng hiến mạng sống vì Thánh Danh Ngài. Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay chúng con trên hành trình đức tin để luôn sống xứng đáng là tử tôn của các ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU