Nhảy đến nội dung

Được gọi để làm người

  • T7, 07/06/2025 - 17:49
  • admin2

Được gọi để làm người

“Trước khi trở thành tín đồ, chúng ta được mời gọi để trở thành con người.”

Image

Đây là một trong những đoạn văn chính trong bài giáo lý của Đức Thánh Cha Leo XIV giảng hôm thứ Tư, ngày 28 tháng Năm, tại Buổi tiếp kiến ​​chung hàng tuần của ngài tại Vatican.

Suy niệm về dụ ngôn Người Samari nhân hậu, Đức Thánh Cha giải thích rằng trong những cuộc gặp gỡ tạo nên cuộc sống của chúng ta, “chúng ta bộc lộ con người thật của mình” và rằng, khi đối mặt với sự mong manh và yếu đuối của người khác, chúng ta có thể “chăm sóc họ hoặc giả vờ không nhìn thấy.”

Đây chính xác là những gì đã xảy ra trong dụ ngôn của Chúa Giêsu: hai vị giáo sỹ, những người có đặc ân được vào không gian linh thiêng của Đền thờ ở Jerusalem, đã không dừng lại trước người đàn ông bị bọn cướp đả thương và nằm bên vệ đường. Thay vào đó, một người Samari - người bị người Do Thái coi là ô uế - đã chạnh lòng thương cảm. Ông là người đã chăm sóc người đàn ông mà truyền thống tôn giáo coi gần như là “kẻ thù”.

Trong bài giáo lý của mình, Đức Thánh Cha Leo XIV đã nhận xét, “Việc thực hành thờ phượng không tự động dẫn đến lòng trắc ẩn. Trên thực tế, trước khi trở thành vấn đề tôn giáo, lòng trắc ẩn là vấn đề quan trọng của nhân loại!”

Là tín đồ và người thực hành, là thừa tác viên của Chúa, không bảo đảm lòng trắc ẩn, cũng không bảo đảm rằng chúng ta sẽ cho phép mình được “làm tổn thương” bởi thực tế, bởi những cuộc gặp gỡ, bởi những tình huống cần thiết mà chúng ta gặp phải.

“Trước khi trở thành tín đồ, chúng ta được mời gọi trở thành con người.”

Chính lòng nhân đạo này, lòng trắc ẩn này, trở thành cơ hội để làm chứng cho Tin Mừng.

Ý tưởng này đã được ghi nhận vào năm 1959, với sự rõ ràng mang tính tiên tri, bởi Cha Joseph Ratzinger, khi đó là một giáo sư thần học căn bản trẻ tuổi tại Đại học Bonn. Trong bài luận “Những người ngoại đạo mới và Giáo hội” ("Die neuen Heiden und die Kirche," 1958–59), khi suy tư về những điều kiện đã thay đổi của những xã hội thế tục hóa, ngài đã viết như sau về chứng tá truyền giáo, “Kitô hữu phải là người vui vẻ giữa những người khác, một người hàng xóm mà họ không thể là một người anh em Kitô hữu.”

Nói cách khác, một người trở thành “người hàng xóm”, giống như Người Samari nhân hậu.

“Tôi cũng nghĩ rằng,” Đức Giáo hoàng Benedictô XVI tương lai nói thêm, “trong mối quan hệ với người hàng xóm không tin, trên hết, họ phải là một con người—không phải là người gây phiền toái với những nỗ lực cải đạo và rao giảng liên tục ... họ không phải là một nhà thuyết giáo, mà đúng hơn, trong sự cởi mở và giản dị tuyệt đẹp, là một con người.”

Cha Ratzinger hiểu rõ cách Giáo hội được sinh ra và tái sinh, cụ thể là từ chứng tá của những người nam và nữ được Chúa Kitô thu hút, có khả năng làm chứng cho Người qua cuộc sống của họ—trong lòng trắc ẩn, trong việc trở thành bạn đồng hành trên hành trình của bất kỳ ai họ gặp.

Mặt khác, Đức Giáo hoàng Benedictô XVI tương lai đã nhận thức rõ về ảo tưởng cố gắng ngăn chặn sự suy tàn của Kitô giáo Tây phương bằng cách rút lui vào pháo đài, giảm đức tin thành chủ nghĩa truyền thống, thành một chất kết dính bản sắc cho tư cách thành viên nhóm hoặc thành một hệ tư tưởng ủng hộ một số dự án chính trị.

Cuối cùng, đây chính là chìa khóa của sứ mệnh, cụ thể là sức mạnh của lời loan báo trong sự đổi thay mang tính thời đại của chúng ta: con người được kêu gọi trước hết và quan trọng nhất là trở thành con người, cởi mở và giàu lòng trắc ẩn.

Những người đàn ông và phụ nữ Kitô giáo không cảm thấy mình vượt trội hơn người khác, biết rằng thường thì chính những “người ở xa”, những người mà chúng ta coi là “không trong sạch”, mới là những người làm chứng cho lòng trắc ẩn, giống như Người Samari nhân hậu trong Tin Mừng.

Jos. Nguyễn Minh Sơn