Nhảy đến nội dung

Epphata , hãy để chúng mở ra!

EPPHATA, HÃY ĐỂ CHÚNG MỞ RA!

Hôm nay, ngày 24 tháng 10, năm 2016, đọc mấy bài trên trang mạng nói về những vụ “kỳ án” liên quan tới Công giáo. Cánh báo chí “chính thống” thì ầm ĩ ra rả trên giấy, trên sóng, trên mạng còn “báo giới” Công giáo có vẻ rất thận trọng trước những sự kiện ấy nên rất ít bài phân tích rõ trên cơ sở học thuyết xã hội Công giáo. Thời cuộc, thôi thì ta hãy tạm chấp nhận lý do tế nhị không viết được “vì thời cuộc”.

Từ nhiều năm nay, và không biết còn đến bao giờ, truyền thông báo chí mang nặng tính “chính trị – truyền thông” hơn là “nhân văn – truyền thông”, càng hạn chế hơn với “đạo giáo – truyền thông”. Tại sao thế nhỉ? À, chắc tại vấn đề chính sự, quyết sách của nhà cầm quyền là ưu tiên số một của nhà truyền thông nước nhà? Cũng phải thôi, sống là phải “biết”, mà biết gì? À, biết bối cảnh chính trị quốc gia và thế giới. Biết để làm gì? Để “cười cái sự đời”, hay biết để “thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”  (x.  Độc Tiểu Thanh Ký, Nguyễn Du) ? Có hẳn một học viện để làm báo chí và tuyên truyền cơ mà. Hễ làm “báo chí – có chí làm báo (NV)” là phải “tuyên truyền”. Tuyên truyền cho ai? Cho điều gì? Và để làm gì? Chắc chắn là cho tư tưởng Mác – Lê và đạo đức Hồ Chí Minh – cơ sở lý luận của hệ thống tư tưởng đương kim  của quốc gia Việt Nam. Thực tế, xã hội chúng ta đang sống hít thở và nhà báo chính thống buộc phải hít thở tư tưởng ấy.

Thường thường, ai đọc báo giấy, xem báo truyền sóng (truyền hình – radio), đọc báo mạng cũng sẽ đọc được những bài viết luận bàn, trao đổi ý kiến về những vấn đề thời sự. Thực tế thì góc nhìn của các ký giả ngày càng công tâm và “rộng” hơn mỗi ngày. Họ không còn nhìn nhận cách thiển cận bằng quan điểm cá nhân được học ở trường báo chí ra nhưng còn tham khảo, nghiên cứu, lập luận khách quan hơn với tham chiếu từ quan điểm báo chí trong khu vực và quốc tế. Được vậy thì quá tốt. Mừng.

Người ta bảo nhà báo – ký giả là người chép sử đương thời cũng không phải ngoa. Báo chí viết tất tần tật mọi cái trên đời, từ chính sự, nghị trường, thương nghiệp, làng xóm, đô thị, cho đến đời tư của một nông dân vừa trúng độc đắc 92 tỷ đồng nữa. Vậy nên, nói đến báo chí là nói đến mọi chuyện ở đời, mọi chuyện trong xã hội từ đông sang tây, từ thành thị tới làng quê, từ chợ búa đến nhà chùa. Mọi sự. Thế nhưng, có một chuyện không bao giờ được nói đến cách nghiêm túc, chân thành, rộng rãi, cấp thiết và sâu sắc: Sự sống vĩnh cữu phía sau cuộc đời – phía sau những trang viết, bên trên những hành vi và siêu hình, siêu tượng. Không ai viết và tha thiết. Vậy có phải nghề báo chỉ là nghề viết cho lịch sử? Cho chính sử, chính trị? Vậy có nên nói về sự sống vĩnh cửu, hay nói trắng ra là nói về một Thiên Chúa vĩnh cửu, nơi đó con người tìm được cấu trúc đầy đủ của chính mình?

Những trang báo viết về những chủ đề xã hội thực tiễn luôn gây ấn tượng mạnh cho công chúng và trở thành đối tượng của những lý lẽ trong các cuộc tranh luận về đạo đức. Những tranh luận làm cho vấn đề dần dược nhìn nhận khách quan hơn, sát thực tế hơn và nhân văn, nhân đạo, liêm chính hơn. Mặt khác, do những ý đồ tư riêng, xuất hiện những bài phê phán riêng rẽ, “chế tạo” ra những mâu thuẫn hoặc tin tức sai lệch tạo nên những xung đột không lành mạnh trong cộng đồng. Có một dạo, trên trang báo viết một bài phản ánh về chuyện cha Thiện, tại Đan viện Biển Đức Thiên Phước (Thủ Đức)  cầu nguyện cho những người hiếm muộn được có con. Nhà báo vào cuộc, viết và đặt tựa đề khá “giật gân”: Đi cầu…có bầu! Dĩ nhiên những người đi khấn không được như ý cũng có, người khấn được ơn cũng có. Nhưng nhà báo chỉ nhấn mạnh đến những trường hợp thất bại do không làm theo đúng chỉ dẫn của Cha Thiện. Có phải nhà báo muốn tạo mâu thuẫn? Và Thâm ý muốn chặn đứng, “định hướng dư luận” theo ý mình?

Báo chí không chỉ mang chức năng thông tin, sứ mạng của báo chí còn liên quan đến vấn đề đạo đức trong mối liên quan tới những hiện tượng xã hội. Chỉ đứng trên một bờ vực nhìn sang thì khó lòng quan chiêm được toàn bộ sự việc. Chủ ý của ký giả trong bài viết, qua câu từ và cách lập luận sẽ rất ảnh hưởng tới đại bộ phận người dân.

Truyền thông báo chí càng ngày càng có nhiều ảnh hưởng quan trọng trong cuộc sống con người và ngay cả trong đời sống thiêng liêng của các tôn giáo. Trên quê hương Việt Nam, do rất nhiều yếu tố đặc thù, lãnh vực hoạt động truyền thông của các giáo hội, những tô chức tôn giáo còn những giới hạn nếu không muốn nói là quá chậm chân và nhiều vấn đề. Với một bài báo vừa đề cập trên, không một tác giả Công giáo nào trả lời lại cho vấn đề đó. Một bài để khẳng định quan điểm của Hội Thánh về cầu nguyện và ân sủng qua câu chuyện Cha Thiện tại Đan Viện Xitô Thủ Đức là cần thiết lắm, nhưng viết trên trang báo nào? Ai viết? Ai cho viết? Thế nên, câu chuyện “đi cầu…có bầu” mà ký giả báo chính thống nêu lên trở thành một lý do để tạo sự nghi kỵ không đáng có giữa dân Công giáo Việt với phần còn lại của dân tộc. Vì, một trang báo trăm phần trăm “Công giáo” đâu được ấn hành và phát hành phổ biến trên đời sống thực tế mỗi buổi sáng như trang báo chính thống của nhà nước kia.

Thử điểm lại một thời báo chí Công giáo và suy ngẫm hiện tình đời sống thông tin Công giáo hiện kim.

Tại Việt Nam từ thời còn các vị Thừa sai đến loan báo Tin Mừng, nhờ có hệ thống chữ quốc ngữ nên nội dung đức tin được lưu truyền dễ dàng qua các ấn phẩm trong nền Văn hóa Công giáo. Quyển “Phép giảng Tám ngày” trở nên Cẩm nang Giáo lý nhập đạo ; và sau đó nhiều tập kinh sách, tài liệu đạo khác nhau ra đời. Trên cả nước đều có những cơ sở in ấn để truyền bá các loại tài liệu, sách báo Công giáo cách công khai chứ không như kiểu “tránh tiếng” bằng cụm thuật ngữ “lưu hành nội bộ”. Báo chí, xuất bản phẩm tôn giáo phong phú, phản ánh đa chiều và tự do rất ích lợi cho đời sống niềm tin của người giáo dân. Ký giả nhà nước tha hồ bình luận những sự kiện “tế nhị” của Công giáo, trong khi Hội Thánh không có phương tiện chính thống trong tầm tay “tuyệt đối tự do tư tưởng” để nhận định hay “phản biện” như cánh tuyên truyền vẫn nói. Có thể nói báo chí Công Giáo ngoài việc thông tin như báo chí nói chung, lại xuất phát từ một động cơ thiêng liêng và phải đóng một vai trò rõ rệt là Tin mừng hóa, là truyền cảm hứng đức tin. 

Khi Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII thiết lập hàng Giáo Phẩm Công giáo Việt Nam đánh dấu bước trưởng thành của Giáo hội, Giáo hội toàn cầu cũng chuyển biến với Công đồng Vatican II (1962-1965). Giữa bao biến cố đó, báo chí thế giới tha hồ tung hoành. Riêng với báo chí Công giáo miền nam Việt Nam, đây là chặng đường tập hợp đông đảo nhất, chuyên nghiệp nhất, đa dạng nhất, mà cũng sôi nổi, phức tạp, đáng suy nghĩ nhất. Không chỉ hàng giáo sĩ trí thức có văn bằng quốc tế mà cả người giáo dân cũng tham gia báo chí Công giáo một cách rất trưởng thành, dám nói lên tiếng nói riêng mình. Báo chí Công giáo miền Nam trong thời cuộc chính trị rối ren vẫn can đảm cất tiếng nói trên quan điểm Công giáo về thế cuộc và thời cuộc khi ấy.

Thực tế, Công Giáo Miền Nam Việt Nam trước ngày 30/4 /1975  đã có nhiều nhà in Công giáo nổi tiếng trên cả nước, ở miền Nam có một vài cơ sở in lớn của Công giáo như “Nguyễn Bá Tòng Ấn loát công ty”, “nhà in Tân Định”, hoặc do người Công giáo quản lý nhà in như Kim Châu, sau đó được Nhà nước tiếp quản và một số nhà sách tự đứng ra in ấn và phát hành các sách báo Công giáo như nhà sách Đa Minh, Thánh Gia… ở Saigon (x. Nguyễn Ngọc Sơn, Bài viết “Vài Nét Về Hiện Trạng Truyền Thông Xã Hội Tại Việt Nam” (10/2006). Bảng Mục lục Báo chí Công giáo Việt Nam đăng trên tờ tuần báo Công giáo và Dân tộc số 862, phát hành nhân kỷ niệm Ngày Báo chí Việt nam, ghi nhận được trên dưới 60 tờ báo Công giáo (x. Lê Đình Bảng, Công Giáo và Dân tộc số 862 (21-6-1992). 

Nhưng sau 1975 báo chí Công giáo như dừng lại, chỉ còn vài tờ báo Công giáo được phép xuất bản chính thức với số lượng xuất bản khá khiêm tốn. Miền Bắc có tuần báo Người Công giáo Việt Nam với số lượng in khoảng 2.500 bản. Miền Nam có tuần báo Công giáo và Dân tộc với số lượng phát hành từ 13.000-15.000 bản và Nguyệt san Công giáo và Dân tộc với số lượng phát hành 3.500 bản. Cả hai tờ báo này do Ủy ban Đoàn kết Công giáo chịu trách nhiệm. Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng có một bản tin chính thức với giấy phép của Cục Báo chí, gọi tên là Bản tin Hiệp Thông, phát hành hai tháng một kỳ với số lượng in 3.000 bản (x. Nguyễn Ngọc Sơn, Bài viết “Vài Nét Về Hiện Trạng Truyền Thông Xã Hội Tại Việt Nam” (10/2006). Riêng các đầu sách Công giáo được phép chính thức xuất bản cũng rất hiếm hoi. Hầu hết các loại sách đạo chỉ được in chui và “lưu hành nội bộ” để khỏi gặp rắc rối. Kể từ khi thành lập Nhà Xuất bản Tôn giáo thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ, ngày 29-4-1999, các sách kinh, tác phẩm, giáo trình giảng dạy, văn hoá phẩm thuần tuý tôn giáo của các tổ chức tôn giáo đều qua con đường này để đến với độc giả, tín hữu. Theo thông tin của Cha Nguyễn Ngọc Sơn, từ năm 1999-2003, Nhà Xuất bản này đã xuất bản tất cả 714 ấn phẩm, 205 văn hoá phẩm với 4,2 triệu bản in trong đó, Công giáo chỉ có 140 đầu sách xuất bản chính thức. Đáng mừng là việc in ấn và phát hành sách báo đã có nhiều thuận lợi hơn trước.

Báo chí Công Giáo cần chỗ đứng trong truyền thông xã hội Việt. Chỗ đứng ấy là một tiếng nói độc lập của lương tri để biện bạch và bênh vực cho sự thật. Vùi kho những nhà sách và thư viện Công Giáo đã bắt đầu hình thành và sống dậy, và việc đưa các thông tin viết lên mạng để giúp người Công Giáo, đặc biệt là giới trẻ, có thể dễ dàng tiếp cận các thông tin hiểu biết về Thiên Chúa, về các giá trị Tin Mừng, về các giáo huấn của Giáo Hội, về đời sống đạo đã giúp giáo dân Việt kiện cường đức tin và có khả năng đối diện với các vấn đề của thế giới hiện đại. Người giáo dân cần góp sức cho công cuộc này bằng việc đào sâu giáo lý Công giáo với tinh thần làm việc liêm chính, hăng say cho việc loan báo Tin Mừng, vạch rõ trắng đen trong tinh thần “phản biện xã hội”.

Thiết nghĩ, cho dù xuất phát từ tư tưởng học thuật nào, nền tảng lý luận nào thì báo chí vẫn nên có sự am tường, sâu sắc, và nhất là tâm hồn tha thiết với sự thật. Những bài viết không thể hiện hết niềm đam mê sự thật mà chỉ “phụng mạng” chấp bút theo lệnh “định hướng dư luận” không hội tụ đủ sự am tường sâu sắc về vấn đề, không tinh tường quan sát, chọn lọc chi tiết công bình, thể hiện quan niệm, sự hiểu biết sâu của mình về lĩnh vực ấy thì bài viết không thể hiện được mực thước nghề báo là chia sẻ sự thật, cổ võ tinh thần liên đới, góp lời động viên để vơi đi những đau khổ, mất mát của đồng loại đồng thời vận động xã hội liên kết vượt qua thử thách thiên nhiên và thời cuộc.

Ngẫm nghĩ, với tấm lòng chân thành luôn mong muốn tốt đẹp. Hy vọng sẽ có ích.

---

Nhà Thờ Thới Sơn

Ngày 24/10/2016

L.M Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thượng