Giả Hình - Bụt Nhà Không Thiêng
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Huệ Minh
1.9 Chúa Nhật XXII
Đnl 4:1-2,6-8; Tv 15:2-3,3-4,4-5; Gc 1:17-18,21-22,27; Mc 7:1-8,14-15,21-23
GIẢ HÌNH
Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Qua lời xác quyết của Chúa Giêsu chúng ta ghi nhận một sự thật đó là vì yêu thương và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Ngài đã truyền cho chúng ta tuân giữ điều này điều nọ. Và như chúng ta cũng đã biết, tình thương phải được đáp trả lại bằng tình thương. Bởi đó, việc chúng ta tuân giữ những lệnh truyền của Chúa cũng phải được xuất phát từ lòng mến chân thành. Một đi khi đã có lòng mến chân thành rồi, nó sẽ phản chiếu ra những hành động bên ngoài và làm cho những hành động ấy có một giá trị siêu nhiên và vĩnh cửu. Bằng không thì những hành động ấy sẽ chỉ như tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên cơm cháo gì, còn bản thân chúng ta chẳng bao lâu sẽ bị lột mặt nạ, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác và giả hình mà thôi.
Đúng thế, Chúa bảo chúng ta hãy xa tránh men bột biệt phái, vì họ là những kẻ vụ hình thức bên ngoài, họ quá chú trọng đến những chi tiết vụn vặt mà quên đi cái yếu tố căn bản của lề luật, đó là lòng mến bên trong. Người biệt phái quan tâm đến việc tắm gội thân xác, giặt giũ quần áo, lau chùi chén bát, tẩy uế chum vò nhưng lại coi thường lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em, khiến cho Chúa Giêsu đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà quở trách họ: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta. Họ gạt bỏ lề luật của Chúa, để bấu víu vào những tập tục của cha ông. Cái chính thì họ không làm không giữ, nhưng lại đi gữ và làm những cái vô nghĩa. Họ đã đảo lộn bậc thang giá trị.
Đức Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại các cuộc tấn công của những kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa không để chúng bị thay thế bởi những luật lệ loài người. Đức Giêsu mới gọi chúng ta đi đến tận “tâm điểm”, tức tận trung tâm của con người mà từ đó phát xuất ra những gì là sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay. Chính khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không giả hình, không biện minh vụn vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không kết án nhân danh những luật lệ chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình, với cái “tâm” của mình, vừa phải đối diện với “giới luật của Thiên Chúa”. Đó chính là hai tiêu chuẩn để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những điều vụn vặt, những hình thức bên ngoài…
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisêu và kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ… thật cầu kỳ, phiền phức. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch. Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay, không làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch hỏi và bắt bẻ Chúa.
Nhân dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là bẩn hay sạch. Trước hết, Chúa trưng lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố cáo họ đã khoác bên ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa tội lỗi bên trong. Như thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái võ quan trọng hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng. Vấn đề rửa tay trước khi ăn. Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần? Thật tình, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Còn của ăn, tự nó là sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch.
Vì thế, Chúa nói cái làm cho bẩn là tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời nói hay hành động: miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là những tư tưởng tốt đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại, tư tưởng xấu sẽ dẫn người ta đến những hành vi độc ác, xấu xa.
Thực vậy, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi lòng này mà sinh ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội chính và còn biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải than rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”, “Lòng người thăm thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”. Để diễn tả người mang mặt nạ giả danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Đối với Chúa Giêsu thì khác, tâm tình bên trong mới là yếu tố quyết định. Từ cái tâm địa xấu mà phát sinh ra những tội gian dâm, trộm cắp, thù oán, nhưng từ cái tâm địa tốt, chúng ta sẽ có được những hành động yêu thương, giúp đỡ và bố thí đối với anh em. Như thế, tư tưởng của chúng ta sẽ đi đôi với lời nói và lời nói thì đi đôi với việc làm. Chúng ta sẽ trở nên những người đôn hậu và chân thành, chúng ta không phải là những kẻ bôi bác và giả hình.
Lòng dạ con người thật nham hiểm. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”. “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên Chúa”… Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa.
Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và Kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưngc có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “tốt mã rã đám”.
***********
2.9 Thứ Hai 1 Cr 2:1-5; Tv 119:97,98,99,100,101,102; Lc 4:16-30
Bụt Nhà Không Thiêng
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay khai mở cho sứ vụ truyền giáo của Ngài. Địa điểm Ngài chọn là Nagiarét, nơi Ngài được cưu mang lớn lên và trưởng thành tại đây. Đó cũng là lý do mà Ngài gặp nhiều khó khăn trên bước đường truyền giáo.
Qua Bài Tin Mừng sau đây chúng ta thấy “Ngài vào hội đường Nagiarét” (c.16). Hội đường là nơi hội họp của người Do Thái ở Palestine cũng như ở các nơi khác tụ về. Trong ngày Sabát họ đọc sách luật, sách ngôn sứ và sau đó là cắt nghĩa giảng giải. Người Do Thái nào đã đến tuổi trưởng thành đều có quyền đọc sách, nhưng người ta thường chọn vị nào có hiểu biết về kinh thánh để giảng giải cho dân. Đức Giêsu đã đến tuổi trưởng thành và Ngài đã được ông trưởng hội đường trao nhiệm vụ đọc sách cho Ngài trong ngày hôm ấy. Đó là sách ngôn sứ Isaia. Ngài không chọn lựa nhưng mở ra và bắt gặp một đoạn nói về việc khởi đầu cho công cuộc rao giảng của Ngài. Hiện tượng này không thể xem là ngẫu nhiên, nhưng có lẽ Thiên Chúa đã sắp xếp khi giới thiệu Con Ngài vào trần gian trong sứ vụ Đấng Mêsia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi” (c. 18) ý nói về hoạt động của Chúa Giêsu là do Chúa Cha xức dầu và do Thánh Thần hướng dẫn.
Đây là hoạt động của cả Ba Ngôi trong công trình cứu độ. Công việc của Chúa Giêsu là : “đem Tin Mừng cho người nghèo, loan báo cho kẻ giam cầm biết họ được phóng thích, ban cho người mù được thấy ánh sáng, kẻ bị áp bức được tha bổng, tự do, công bố năm hồng ân của Chúa” (18-19).
Với vỏn vẹn trong 2 câu, Thánh sử Luca đã mượn lời ngôn sứ Isaia để nói về thân phận và sứ vụ của Đức Giêsu. Ngài đến đem bình an, sự tự do và hạnh phúc cho những người nghèo khổ. Ngài chính là Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong đợi. Ngài cởi bỏ xiềng xích, tháo gỡ gông cùm cho những người tù tội, nô lệ. Ngài công bố năm hồng ân của Chúa mà đối với người Do Thái phải 50 năm mới được hưởng một lần. Trong năm hồng ân, mọi của cải mất mát sẽ trở về, ruộng đồng được nghỉ ngơi. Đó là năm ân xá cho toàn thể dân chúng ( x. Lc 25, 10-13). Chúa Giêsu đến, Ngài công bố năm hống ân sẽ được thực hiện, phúc lành Thiên Chúa sẽ ban dư tràn trên dân, trên những ai biết mở loøng ra đón nhận.
Sau khi đọc sách xong, Chúa Giêsu cuộn sách trả lại và ngồi xuống giảng giải. Ngài khẳng định: “ Hôm nay lời kinh thánh mà các ông vừa nghe đã ứng nghiệm” ( c.20). Như thế là một cách Chúa Giêsu giới thiệu mình chính là Đấng Mêsia, Đấng đến từ Thiên Chúa mang phúc lành cho toàn dân và hôm nay ơn cứu độ đã đến. Mọi người đều tán thành những lời ấy ( c.22). Họ tỏ ra hiểu được sứ điệp của lời Người vừa đọc và như sẵn sàng chuẩn bị đón chào con người của Ngài, là người vừa thốt ra lời hay ý đẹp. Đến đây, chúng ta tưởng rằng việc rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu đã thành công ngay bước khởi đầu, ngay ngày “ ra quân”, thế mà họ lại xầm xì “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”.
Ta thấy một câu hỏi như muốn lột trần Đức Giêsu bằng con mắt tự nhiên ghen tỵ của họ. Họ thức tỉnh chính họ rằng: con người bằng xương bằng thịt đang đứng trước họ chỉ là con người bình thường trong một gia đình lao động mà họ biết rất rõ veà thân thế và sự nghiệp. Đức Giêsu đã đọc được điều đó trong lòng họ, trong thái độ của họ nên Ngài vạch trần tỏ tường ghen tỵ ấy bằng một lời khẳng định : “ Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (c. 24). “ Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga, 11).
Đó là số phận của các ngôn sứ trong thời Cựu Ước và cũng là điềm báo cho số phận sau này của Đức Giêsu. Ngài bị chính dân Ngài chối bỏ, giết chết bằng cách đóng đinh trên Thập Giá. Sống ngôn sứ là dám chết cho lời chứng của mình và cái chết là lối chứng hương hồn và sống động nhất. Như các ngôn sứ trong Cựu ước, như Gioan Tẩy Giả và nhất là như Đức Giêsu Đấng đã gióng lên tiếng yêu bằng cây Thập giá vinh quang. Đó là lối đường yêu thương của Thiên Chúa: Yêu đến cùng (x. Ga 13, 1).
Từ câu 25-27, Chúa Giêsu đưa ra dẫn chứng : Trong Cựu ước, những ai thuộc đoàn dân Chúa mà từ chối ơn lành, thì Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ ấy cho dân ngoại như Êlia đã giúp bà goá Xa-rep-ta, như Êlisa đã chữa Naaman xứ Xyria. Những ví dụ này đánh động lòng chai cứng của người Do Thái, nhưng họ cứ chai lì trong sự bướng bỉnh, cố chấp nên thay vì họ thay đổi, sám hối, ăn năn thì họ lại tỏ ra phẩn nộ, điên cuồng. Họ đồng phản ứng bằng cách: dứng dậy và lôi Đức Giêsu ra khỏi thành, đưa lên đỉnh núi để tiêu diệt một con người dám nói lên sự thật, như gai nhọn đâm vào lòng họ. Họ muốn dập tắt tiếng nói lương tâm bằng hành vi giết chết một con người tiên tri. Nhưng họ không làm được vì giờ của Ngài chưa đến, vì con dường cứu độ của Ngài chỉ kết thúc ở Giêrusalem chứ không ở Nagiaret và Đức Giêsu cứ tiếp tục con đường sứ vụ của Ngài “Ngài băng qua giữa họ mà đi” ( c.30). Ngài vẫn hiên ngang ra đi loan báo Tin Mừng, dù bị chống đối, phản kháng.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.