Giác quan - Chữ Hạnh
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Trầm Thiên Thu
GIÁC QUAN
Con người có ngũ quan – thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác. Có lẽ thị giác nguy hiểm nhất, vì từ đó dẫn tới những thứ khác. Sau đó là thính giác, rồi vị giác – nhưng vị giác ở đây có ý nói tới miệng lưỡi, liên quan lời nói. Ai cũng “quen” với hình ba chú khỉ tuyết Nhật Bản liên quan Mắt, Tai, Miệng. Hình đó minh họa điều tích cực: “Không Nhìn Điều Ác, Không Nghe Điều Ác, Không Nói Điều Ác.”
Có một người vừa điếc vừa ngọng được Chúa Giêsu chữa lành. Sự kiện này được kể trong trình thuật Mc 7:31-37. Hôm đó Chúa Giêsu rời vùng Tia để đi qua ngả Siđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh, một người vừa điếc vừa ngọng được đưa đến và xin Ngài đặt tay trên anh ta. Anh chàng này có hai giác quan bất ổn: tai và miệng.
Chúa Giêsu kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Cách chữa của Chúa Giêsu quá kỳ lạ, nhưng đó là cách Ngài thể hiện cho người ta dễ hiểu thôi, chứ Ngài không cần phải gì, nói một lời là xong hết. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Épphatha! – Εφφαθα – Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta MỞ RA, lưỡi như HẾT BỊ BUỘC LẠI, và anh ta nói được rõ ràng. Ngài truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả, nhưng phàm nhân vốn hiếu kỳ, khoái làm ngược lời căn dặn. Thật vậy, Chúa Giêsu càng cấm họ thì họ lại càng đồn ra. Mà cũng không thể trách họ, vì họ quá kinh ngạc khi chính họ “mục kích sở thị” tỏ tường chứ chẳng phải nghe ai nói lại, nên họ bàn tán với nhau: “Ông ấy làm VIỆC GÌ CŨNG TỐT ĐẸP cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Những gì bị đóng thì cần được mở ra. “Vừng ơi, mở ra!” là câu thần chú đã được Kasim sử dụng để mở cửa hang trong truyện “Nghìn Lẻ Một Đêm” – truyện cổ dân gian của Ai Cập và Ba Tư, nói về Ali Baba và 40 tên cướp. Kasim là anh của Ali Baba, giàu có và tham lam, nhưng không mở được cửa hang khi niệm các câu thần chú khác: “Đậu ơi, Kê ơi, Ngô ơi, Lúa ơi, Gạo ơi, mở ra!”
Ngũ quan cần thiết cho sinh hoạt hằng ngày. Cần được mở ra nếu mắt mù, miệng câm, tai điếc. Đôi khi tim cũng cần được mở (mở van tim theo nghĩa đen, mở tấm lòng theo nghĩa bóng). Các cơ phận rất cần được mở để cơ thể hoạt động bình thường, nhưng tâm linh cần được mở hơn: Mở ra với Thiên Chúa, với đức tin, với đức khôn ngoan, với điều tốt, với đức ái, với lòng thương xót, với tha nhân,... Đôi khi chúng ta tưởng lòng mình đang “mở toang” mà lại vẫn “đóng kín.” Như Khổng Tử nói: “Đạo làm quân tử có bốn điều đúng: Mạnh dạn khi làm điều nghĩa, nhũn nhặn khi nghe lời can gián, lo nghĩ khi nhận bổng lộc, và cẩn thận đối với việc sửa mình; đời có bốn cái lo: Lo đức ít mà được sủng ái nhiều, lo công lập được ít mà được hưởng nhiều bổng lộc.” Rất đáng quan ngại!
Các đức tính cũng là “chìa khóa” để mở. Trình thuật Is 35:4-7a cho biết: Sau khi xử tội Êđôm và Giêrusalem toàn thắng, Thiên Chúa sai ngôn sứ Isaia nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Thiên Chúa đã ra tay cứu thoát những bần dân khốn khổ vì bị thế lực trần gian áp bức. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, người què nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm reo hò. Mọi sự hoàn toàn khác hẳn, thế cờ đảo ngược: Kẻ yếu nên mạnh, chuyển bại thành thắng. Con người biến đổi, thiên nhiên cũng biến đổi: Nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu, miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra. Mọi thứ đều được chính Thiên Chúa “mở ra” nên khác hoàn toàn.
Là phàm nhân yếu đuối, ai cũng có kinh nghiệm về việc bị ma quỷ “đóng chặt” khi phạm tội – tức là bị nó xiềng xích, và rồi lại có kinh nghiệm được Thiên Chúa “mở ra” khi biết ăn ăn sám hối. Không chỉ vài lần mà rất nhiều lần, càng nhiều tuổi càng nhiều kinh nghiệm. Vì thế, phải luôn tự nhủ: “Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 146:2) Dù hoàn cảnh (chung và riêng) có thế nào, Thiên Chúa vẫn mãi là nơi ẩn náu và sức mạnh của các tín hữu: “Muôn dân náo động, muôn nước chuyển lay, tiếng Người vang lên là trái đất rã rời. Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi, Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.” (Tv 146:7-8) Đôi khi Thiên Chúa không thay đổi hoàn cảnh của chúng ta vì Ngài đang biến đổi tâm hồn chúng ta.
Mọi thứ chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Thiên Chúa, vì hòn đá kia có thể trở nên con cái của Tổ phụ Ápraham – nếu Ngài muốn. Vô tri bất mộ. Càng trải nghiệm về Ngài thì không thể im lặng, phải công khai nói với người khác: “Đến mà xem công trình của Chúa, Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu. Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế, cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan, còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa.” (Tv 146:9-10) Thiên Chúa chưa ra tay với ác nhân vì Ngài còn kiên nhẫn cho họ hưởng nhờ lòng thương xót mà ăn năn.
Thánh Giacôbê bảo chúng ta “phải kính trọng người nghèo.” Nghèo không chỉ về vật chất mà cả về tâm linh. Người nghèo khổ là đối tượng của Lòng Chúa Thương Xót, luôn được Ngài động lòng trắc ẩn và ra tay cứu trợ. Thánh Giacôbê nhắn nhủ: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư.” (Gc 2:1) Và ông đặt vấn đề: “Giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này,’ còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây!’ thì anh em đã chẳng tỏ ra KỲ THỊ và trở thành những THẨM PHÁN ĐẦY TÀ TÂM đó sao?” (Gc 2:2-4)
Có lẽ lời thẳng thắn như vậy “chạm” vào tự ái của chúng ta. Cái mà người ta vẫn gọi là bình đẳng thì có thể lại không hề bình đẳng, chẳng hạn trong hệ lụy giàu – nghèo. Người ta ví von: “Miệng nhà giàu có gang có thép.” Họ có thể “xoay chuyển” đủ kiểu! Quả thật, thực tế cho chúng ta thấy những cách cư xử đối lập với Thiên Chúa, không chỉ ở giáo dân, mà đáng buồn là ở ngay những người mệnh danh là mục tử. Có người chỉ thích “chiên béo” và “chơi thân” với các giáo dân có “máu mặt,” không thì đừng mơ chi!
Chuyện không vui nhưng có thật: Linh mục H. ở xứ B. (hạt T., GP X.) nhận một phong bì tiền xin lễ từ một ông trong ban hành giáo, linh mục này liền xé phong bì, và gắt giọng: “Xin lễ có một trăm ngàn à. Từ nay ông đừng nhận phong bì xin lễ của ai nữa nhé!” Linh mục này thường xuyên “gần gũi” với những người có máu mặt trong xứ. Rồi giáo dân sẽ là những con chiên như thế nào khi họ cứ phải chứng kiến các động thái tương tự? Một linh mục trẻ khác (chưa được ba năm), hàng tháng gởi tiền vào ngân hàng, người ta nói là “sướng quá,” linh mục này nói: “Vì tôi là linh mục mà!” Một câu nói xem chừng rất ư bình thường nhưng lại chứa đầy vẻ cao ngạo!
Đúng là “tin đạo chứ không tin người có đạo.” Cứ cái “thói” phân biệt đối xử và kỳ thị như họ thì người nghèo không bao giờ được vào Thiên Đàng, vì họ “mở toang” với người giàu có, sang trọng, chức quyền,... nhưng lại “đóng kín, khép chặt” với người hèn mọn, yếu đuối, nghèo khổ,... Nhưng Thiên Chúa hoàn toàn trái ngược với họ, Ngài phê bình nặng nề và rõ ràng từng chi tiết, vì Ngài là người luôn nói thẳng nói thật, “không vị nể ai.” (1 Pr 1:17) Kẻ nào lộng hành, ỷ thế cậy quyền, mạo nhận mình “ngon lành” hơn người khác, chắc chắn Thiên Chúa sẽ “đóng kín” đối với họ. Ngài không thể “mở” với những kẻ đối lập với Ngài!
Thật chí lý khi người ta nói: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi.” Có lẽ ngày xưa Thánh Giacôbê cũng thấy trái tai gai mắt nên mới tiếp tục nhắn nhủ: “Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn NHỮNG KẺ NGHÈO KHÓ trước mặt người đời để họ trở nên NGƯỜI GIÀU ĐỨC TIN và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (Gc 2:5) Cách đặt vấn đề không hề dễ trả lời chút nào. Ai có thể trả lời ngay thì mới xứng đáng là môn đệ của Thầy Chí Thánh Giêsu, nếu không thì chỉ là “đồ giả,” mà “đồ giả” thì Chúa Giêsu rất ghét. (x. Mt 23:13-33; Lc 6:24-26; Mt 11:21-24; Lc 10:13-15; Mt 18:7; Mc 9:42-48; Lc 17:1-2; Pl 3:2; Kh 22:15; Mt 23:33) Nếu đọc lại mấy đoạn này, có thể chúng ta sẽ bị điếc và ngọng đấy!
Thánh Vịnh gia cầu xin chân thành: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.” (Tv 51:17) Ước gì chúng ta cũng luôn biết cầu nguyện như vậy. Xin được mở miệng để chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa chứ không để “mỉa mai” hoặc “chửi rủa” người khác. Đó cũng là một dạng khiêm nhường. Nhưng cũng nên lưu ý cách triết lý của Lev Tolstoy (người Nga): “Khi bạn ý thức được mình là người khiêm tốn nghĩa là bạn không còn khiêm tốn nữa.” Một triết lý sống thâm thúy không dễ gì ai cũng hiểu được!
Thật tuyệt vời với khẩu hiệu của trường nữ sinh Công giáo SJB (St. Jean Baptiste High School – Trường Trung Học Thánh Gioan Tẩy Giả), thuộc GP New York: “Parare Domino plebem perfectam – Chuẩn bị cho Thiên Chúa một dân tộc hoàn hảo.” Một cách “mở ra” cho tương lai thật tuyệt vời. Ước gì nền giáo dục của Việt Nam cũng biết “mở ra” hướng như vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin Ngài mở ra những gì đã bị người đời đóng lại. Xin ban cho chúng con chìa khóa đặc biệt để chúng con có thể mở đời chúng con, xin giúp chúng con mở lòng ra với tha nhân theo cách của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
▶ Trầm Khúc – https://youtu.be/rbJD_eq11h0
*********
Chữ HẠNH
Ca dao Việt Nam có câu: “Người trồng cây HẠNH người chơi – Ta trồng cây ĐỨC để đời mai sau.” Đó cách nói ẩn dụ, dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng. Cây Hạnh là cây mận, ngụ ý nói tới Hạnh Kiểm – nhân đức nơi con người. Trong đó, chữ “hạnh” đối với chữ “đức.” Cây Đức là ẩn dụ về đức hạnh của con người. Câu ca dao này đề cao giá trị đạo đức qua việc tu dưỡng. Trồng cây cối chỉ có lợi vài tháng hoặc nhiều năm, nhưng trồng “cây đức” sẽ lợi ích mãi mãi.
Làm gì cũng phải kiên trì, tu tâm dưỡng tính càng phải kiên trì hơn. Lợi ích không thấy ngay nhưng chắc chắn sẽ hữu ích, đồng thời phải miệt mài ngày đêm, và khởi đầu từ nền tảng vô giá: “Tiên học Lễ, hậu học Văn.” Được giáo dục và tiếp thu tốt, con người đó sẽ tốt lành và hữu dụng. Tiền nhân nói đơn giản mà thâm thúy: “Ở có đức mặc sức mà ăn.” Đặc biệt là có lợi về tinh thần, như ca dao nói: “Ở hiền thì lại gặp lành – Những người nhân đức Trời dành phúc cho.”
TỪ NGỮ
Chữ “Hạnh” có nhiều nghĩa: Phẩm hạnh, hạnh kiểm; may mắn, phúc lành; hy vọng, kỳ vọng; thương yêu, sủng ái; thương xót, lân mẫn, lân tuất; khen ngợi, khuyến khích. Phạm vi bài này chú trọng ý nghĩa Nhân Đức. Trong tứ đức, Hạnh là đức thứ tư, được xem là quan trọng nhất đối với phụ nữ. Chữ “Hạnh” là hạnh kiểm, kín đáo, đạo đức, nhân hậu, thủy chung, son sắt, yêu thương, nề nếp,… Đức hạnh của phụ nữ được thể hiện qua các mối quan hệ phu thê, mẫu tử, phụ tử. Phụ nữ phải biết giữ gìn phẩm hạnh, tiết hạnh, lễ giáo gia phong.
Có nhiều loại “hạnh” như hạnh ăn uống, hạnh đi đứng, hạnh nằm, hạnh ngồi, hạnh ngủ, hạnh ăn mặc, hạnh đầu tóc, hạnh ăn ở, hạnh làm việc, hạnh nói năng, hạnh đối xử, hạnh hiếu đễ, hạnh lễ nghĩa, hạnh nhẫn nhục, hạnh chịu đựng, hạnh giữ mình,... Rất đa dạng.
Riêng “hạnh” về lời nói có liên quan nhiều dạng: [1] không nói to, [2] không lắm chuyện, [3] không thêm bớt, [4] không ngắt lời, [5] không mập mờ, [6] không lấy lòng, [7] không nói hành, [8] không ba hoa, [9] không điêu ngoa, [10] không khích bác, [11] không khoác lác, [12] không càm ràm, [13] nói thật lòng, [14] nói đầy đủ, [15] nói mạch lạc, [16] nói chắc chắn, [17] nói ý tứ, [18] nói điều cần, [19] nói sự thật, [20] nói nghiêm túc.
CHUYỆN KỂ
1. Một chàng trai nhận ra thầy giáo dạy tiểu học của mình trên đường. Anh lại gần ông giáo già và hỏi: “Thầy có nhận ra em không? Em là học sinh của thầy đây.” Ông giáo già thản nhiên: “À, thầy nhớ là dạy em hồi lớp ba. Bây giờ em làm gì rồi?” Chàng trai nói: “Em cũng đi dạy học. Chính thầy có ảnh hưởng sâu sắc đến em, nên em cũng muốn đi dạy những em nhỏ.”
Ông giáo già cười: “Vậy sao? Cho phép tôi tò mò một chút, ảnh hưởng của tôi thể hiện về điều gì?” Chàng trai ngạc nhiên: “Thầy thực sự không nhớ gì sao? Thầy cho phép em nhắc lại chuyện cũ nhé.” Rồi chàng trai kể lại rằng...
Có lần một bạn học đến lớp đeo một chiếc đồng hồ rất đẹp được bố mẹ tặng. Bạn ấy tháo ra và đặt nó vào ngăn bàn. Em luôn mơ ước có một chiếc đồng hồ như thế. Em đã không kiềm chế được lòng tham và quyết định lấy chiếc đồng hồ đó. Một lúc sau, bạn ấy đến chỗ thầy, vừa khóc và vừa than bị mất đồ. Thầy nhìn khắp cả lớp một lượt rồi nói: “Ai đã lấy chiếc đồng hồ của bạn, xin hãy mang trả cho bạn ấy.”
Em rất xấu hổ, nhưng em không muốn bỏ chiếc đồng hồ ra, do vậy em đã không nhận lỗi. Thầy đi ra đóng cửa lớp lại và ra lệnh cho tất cả học sinh nam đứng dọc bờ tường. Thầy báo trước: “Thầy sẽ khám túi tất cả các em với một điều kiện: tất cả phải nhắm mắt lại.” Chúng em nghe lời thầy, và em cảm thấy đó chính là khoảnh khắc đáng xấu hổ nhất trong thời thơ ấu của mình.
Thầy đi từ đứa này đến đứa khác, sờ từ túi quần này sang túi quần khác. Khi rút chiếc đồng hồ ra khỏi túi quần của em, thầy vẫn tiếp tục đi đến đứa học trò cuối cùng. Sau đó, thầy nói: “Các em, tất cả đã xong. Các em có thể mở mắt ra và đi về bàn của mình.” Thầy đưa trả lại chiếc đồng hồ cho bạn ấy và không bao giờ nói gì về việc đó.
Ngày hôm đó, thầy đã cứu vãn danh dự và tâm hồn em. Thầy đã không tố giác em là kẻ cắp, kẻ lừa dối, đứa vô tích sự. Thầy cũng không cần nói chuyện với em về điều đó. Mãi sau này, em mới hiểu tại sao. Bởi vì thầy là người thầy chân chính, thầy không muốn làm hoen ố phẩm cách một đứa trẻ chưa trưởng thành. Bởi vậy, em đã trở thành thầy giáo như thầy.
Cả hai im lặng, bồi hồi nhớ lại chuyện xưa. Rồi chàng trai hỏi: “Chẳng lẽ hôm nay nhìn thấy em, thầy không nhớ chuyện đó sao?” Ông giáo già trả lời: “Vấn đề là ngày xưa, khi soát túi quần các em, thầy cũng NHẮM MẮT.”
2. Nhà trí thức kiêm thi sĩ François Coppée (1842–1908), người Pháp, cộng tác với tờ Journal de Paris. Mỗi bài đăng của ông được trả rất hậu hĩnh hồi cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.
Khi thấy báo này cho đăng những bài nghịch đạo và chống đạo Công giáo, ông xin giám đốc tờ báo đó cho ông ngưng cộng tác. Ông giám đốc tưởng là vấn đề tiền bạc nên nói: “Tôi sẽ trả cho ông 25 ngàn franc (tiền Pháp) mỗi năm.” Tuy nhiên, ông François mỉm cười và trả lời: “Thưa ông, đây không phải là vấn đề tiền bạc. Tôi biết ông luôn tốt lành, tế nhị và hào phóng với tôi. Nhưng đây là vấn đề LƯƠNG TÂM của tôi.”
Cả hai câu chuyện đều đề cập vấn đề Lương Tâm, tất nhiên liên quan chữ “Hạnh” của con người. Vấn đề có vẻ đơn giản mà rất phức tạp, thậm chí là quá nhiêu khê. Thật không dễ gì khi phải quyết định, vì “cái tôi” luôn ngăn cản. Phải là người thực sự có đức hạnh thì mới có thể hành động như ông giáo già và ông François Coppée.
CUỘC SỐNG
Thời Cựu Ước có bà Rút “là một phụ nữ đức hạnh,” (R 3:11) được mọi người quý mến, yêu thương. Kinh Thánh xứng đáng: “Phụ nữ ít nói là quà Đức Chúa ban, không chi sánh bằng người có giáo dục. Phụ nữ nết na là ân phúc tuyệt vời; không chi quý giá bằng người tiết hạnh. Người vợ hiền trong cửa nhà ngăn nắp đẹp như vầng hồng trên chốn cao xanh của Đức Chúa.” (Hc 26:14-16) Và Kinh Thánh có lời khuyên dành cho quý ông: “Đừng rời bỏ người vợ khôn ngoan đức hạnh, vì duyên dáng của nàng quý hơn cả vàng nữa.” (Hc 7:19)
Có nhiều loại “Hạnh” được đề cập như lời khuyên trong sách Huấn Ca: “Con phải biết thẹn thùng xấu hổ trước mặt cha mẹ, vì chuyện dâm ô, trước mặt người quyền cao chức trọng vì những lời dối trá, trước mặt những ai cầm quyền xét xử vì hành vi phạm pháp, trước mặt cộng đồng, trước mặt toàn dân vì lối sống vô đạo, trước mặt các bạn bè thân hữu vì những chuyện bất nghĩa, bất nhân, trước những người cùng xóm cùng làng vì những chuyện trộm cắp. Con phải biết thẹn thùng xấu hổ vì không giữ lời thề nguyền cam kết, hay đã giơ tay xin bánh mà ăn, vì lăng nhục khi nhận hoặc cho, hay làm thinh trước những ai chào hỏi, vì gặp gái bán dâm mà nhìn chòng chọc, hay gặp họ hàng thân thích mà ngoảnh mặt đi, vì chiếm của, chiếm quà người ta, hay mải mê nhìn phụ nữ có chồng, vì săn đón đầy tớ gái người ta – tới gần giường cô ấy làm gì! Con phải biết thẹn thùng xấu hổ vì làm nhục bạn bè – đã cho người ta thì đừng làm nhục! – vì học lại cho người khác điều đã nghe, hay tiết lộ những điều bí mật. Có vậy con mới biết thế nào là xấu hổ thật và sẽ gây được thiện cảm với mọi người.” (Hc 41:17-27)
Là con người, dù nam hay nữ, cũng phải trau chuốt chữ “Hạnh” suốt đời, như Kinh Thánh cho biết: “Người đức hạnh lưu danh muôn thuở, vì được cả Thiên Chúa lẫn người đời biết đến.” (Kn 4:1) Chữ “Hạnh” cũng được cụ Nguyễn Đình Chiểu đề cập trong tác phẩm Lục Vân Tiên: “Trai thời Trung Hiếu làm đầu – Gái thời Tiết Hạnh là câu trau mình.”
Đức Hạnh đối lập với Thói Xấu nhưng có liên quan với nhau. Thánh Gioan Climacus cho biết: “Ma quỷ thường làm hại linh hồn con người bằng cách lấy đức hạnh và việc thiện tu đức của con người bày ra trước mắt để dẫn con người tới kiêu ngạo.” Và Thánh “Bông Hoa Nhỏ” Têrêsa nói: “Ma quỷ thường hay đánh lừa những linh hồn quảng đại bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận, đồng thời lại lấy đó làm tự mãn.” Đừng ảo tưởng hoặc ngộ nhận kẻo chưa Khôn đã Khốn!
Khi cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi – cách riêng là Năm Sự Vui, tín nhân được nhắc nhở phải cầu xin để có được các nhân đức: khiêm nhường, bác ái, nghèo khó, vâng lời, trung tín (giữ nghĩa cùng Chúa).
Cuộc sống nhiêu khê, luôn phải nỗ lực không ngừng. Ca dao Việt Nam nói: “Khúc sông bên lở bên bồi – Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm.” Hình ảnh con sông cụ thể và rõ ràng, ai cũng nhân thấy. Chúa Giêsu cũng rất thực tế khi Ngài nói: “Phàm ai đã có thì sẽ được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.” (Mt 25:29; Lc 19:26)
Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm cho chúng con các nhân đức đối thần và đối nhân để chúng con sống xứng đáng là con cái và chứng nhân của Ngài. Lạy Thánh Nử Đồng Trinh Maria, xin cầu thay nguyện giúp chúng con, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.
TRẦM THIÊN THU