Giao Ước Máu
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- JM. Lam Thy ĐVD.
GIAO ƯỚC MÁU
(CN IX/TN-C – MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KI-TÔ)
Vào cuối thế kỷ XII, khi một số Giáo sĩ bàn tính đề nghị Tòa Thánh Vatican thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô, thì ngay lập tức gặp phản ứng: “Lễ nào không phải là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giê-su hay sao, mà Phụng vụ còn phải đặt ra ngày lễ này?” Trước đó, tức là trong hơn 10 thế kỷ đầu của Ki-tô giáo, Hội Thánh vẫn cử hành Thánh lễ Tạ ơn, mà trung tâm điểm của Thánh lễ là nghi thức tái hiện hy tế Máu Thánh Chúa Giê-su đổ ra trên Thập giá; nhưng không nghĩ tới việc đặt ra một ngày đặc biệt để tôn thờ Chúa Giê-su trong Giao Ước Máu cực thánh này.
Sang đến đầu thế kỷ XIII, Hội Thánh mới thấy việc chiêm niệm bí tích này là cần thiết. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giê-su được thiết lập để nói lên niềm tin vào việc Chúa thực hiện Giao Ước Máu cứu độ nhân loại. Niềm tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong thái độ chầu Mình Thánh, và kiệu Mình Thánh. Đến năm 1264, Đức GH Ur-ba-nô đã cho công bố với Giáo hội hoàn vũ việc chọn ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi làm ngày kính Mình Máu Thánh Chúa cách đặc biệt. Tên Thánh lễ cực trong này là Lễ “Corpus Christi”. Tập quán trên đã được duy trì từ thế kỷ XIII cho đến hiện nay. Sau Công đồng Va-ti-ca-nô II, một vài sửa đổi đã được thực thi, trong đó lễ Corpus Christi được dời vào ngày Chúa Nhật sau Lễ Chúa Ba Ngôi.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô nhắc nhở người tín hữu nhận chân được đây chính là Giao Ước Ân Điển (Giao Ước Mới) mà Thiên Chúa ký kết với loài người bằng chính Con Một Người làm Chiên Sát Tế, vì thế quen gọi là “Giao ước Máu”. Nói đến Giao ước Máu tự nhiên nhớ đến tục “uống máu ăn thề”. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí giao ước với nhau trong một chính kiến hay một công việc trọng đại nào đó. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Sách "Việt điện U Linh" có chép: Đời nhà Lý (1010-1225), vào ngày 23/3/1028, vua Lý Thái Tông ban chiếu lập đàn treo cờ tại đền Đồng Cổ (trên núi Đồng Cổ – còn gọi là núi Khả Phong – xã Đan Mô, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa), bắt các hoàng thân quốc thích và tất cả triều thần tới đền, đứng trước thần vị, đọc lời thề rằng: "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; ai bất trung bất hiếu, thì xin thần minh làm tội". Sau khi tuyên thệ, mỗi người uống tiết sống ăn thề (tiết này là máu được lấy từ một con vật bị cắt tiết)
Sách "Hà Nội địa dư chí" còn chép thêm rằng: Đời nhà Trần cũng bắt chước lối thề của nhà Lý. Ngày hôm đó, nhà vua ngự tại điện Đại Minh, các quan phải đem cả gia nhân tới đền mà thề rằng: "Làm tôi phải hết lòng trung, làm quan phải thanh bạch; ai trái lời thề, thần minh giết chết". Đến triều Hậu Lê cũng vẫn theo lệ này, nhưng chọn ngày "Mậu" (theo “thập Can” trong âm lịch) tháng giêng mỗi năm làm lễ tuyên thệ ở bến sông. Còn tại đền Đồng Cổ thì vua sai quan đến tế lễ. Lễ hội minh thề giữ tục “uống máu ăn thề”. Một con gà chân vàng, lông nâu, mào đỏ thắm được bê vào khu vực hiến tế. Sau nhát dao hóa kiếp, máu gà hòa trong hũ rượu. Vị chủ tế múc cho mỗi người một chén để đồng dạ, đồng lòng. Lời thề như dao chém đá, trời đất chứng kiến, thần linh ủng hộ. (xc nguồn: maxreading.com/sach-hay/dien-hay.../tuc-uong-mau-an-the-2181.html ).
Như vậy tục “uống máu ăn thề” nói lên việc cam kết với nhau cùng thực hiện một thỏa ước, một giao ước; thay vì ký kết bằng văn tự thì các bên liên quan kết ước với nhau bằng cách uống chung một chén máu (máu này có thể là máu một con vật, cũng có thể là máu của những người cam kết cùng hòa chung trong một chén, và khi tuyên thệ thì mỗi người uống một ngụm). Nhưng vì sao lễ Corpus Christi lại được coi là Giao Ước Máu? Đây chính là Giao ước Ân Điển (Giao ước Mới) mà Thiên Chúa ký kết với loài người bằng chính Con Một Người làm Chiên Sát Tế. Theo nghĩa Kinh Thánh, giao ước được thiết lập và đóng ấn bằng một lễ nghi công khai và long trọng. Theo phong tục của dân It-ra-en xưa, người ta đóng ấn giao ước bằng nghi thức sát tế một con vật, rồi phân thây con vật ấy thành hai phần và đặt dưới đất. Sau đó, đại diện hai bên lần lượt đi ngang qua giữa hai phần con vật đó, ngụ ý quyết tâm thi hành giao ước và sẵn sàng chịu cùng một số phận như con vật bị giết nếu vi phạm giao ước (x. St 15, 7-20; Gr 31, 31; Gr 34, 18-22).
Nói về Giao ước, Thánh Kinh đề cập đến 8 Giao ước, đó là: 1- Giao Ước Nô-ê trước và sau cơn nước lụt Hồng Thủy (St 6, 13-22; 9, 8-17); 2- Giao Ước Áp-ra-ham (St 15, 18-21); 3- Giao Ước I-xa-ác (St 17, 19-21); 4- Giao Ước Gia-cóp (St 28:10-15): 5- Giao Ước Sinai, Đức Chúa ghi 10 lời giao ước (tức mười điều răn) trên bia đá (Giao Ước Sinai còn gọi là Giao Ước Luật Pháp hoặc Giao Ước Mô-sê hoặc Giao Ước Cũ – Xh 19, 1-25; 20, 1-26): 6- Giao Ước Đất Hứa còn gọi là Giao ước Pa-lét-tin (Xh 12, 1-20; Đnl 16, 1-17); 7- Giao ước Đa-vít: (2Sb 13, 4-12) trong Giao ước Đa-vit có tiên báo về Đấng Christ (Lu-ca 1, 31-33). 8- Giao Ước Mới (còn gọi là Giao Ước Lời Hứa hoặc Giao Ước Ân Điển). Giao Ước Mới: được hứa ban từ Cựu Ước (Gr 31, 31), được ấn chứng bằng máu của Đức Ki-tô trên thập tự giá nên được coi là Giao Ước Máu.
Trong 8 Giao ước đó, thì 7 Giao ước được ban hành trước công nguyên nên gọi là Giao ước Cũ (Cựu Ước) còn Giao Ước Lời Hứa (Giao ước Ân Điển) thì gọi là Giao ước Mới (Tân Ước). Có một điều rất đáng suy gẫm là Giao ước Mới được ban hành đúng vào ngày ăn mừng lễ Vượt Qua (lễ Bánh Không Men trong Giao ước Đất Hứa – Xh 12, 1-20): “Trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy." Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26, 26-28). Vì thế, nên 2 giao ước được coi là nền tảng Giáo hội, đó là: Giao ước Đất Hứa (Cựu Ước) và Giao ước Lời Hứa (Tân Ước).
Với Lễ Vượt Qua (Xh 12, 1-28; 14, 1-31), thì đó là “ngày phải sát tế chiên Vượt Qua” (“con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi… Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên.” – Xh 12, 5-7); để vượt qua được ngày “sát tế con đầu lòng Ai Cập” (“Đó là lễ tế Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các nhà chúng ta thoát nạn." – Xh 12, 27). Giao Ước Đất Hứa được đóng ấn bằng cách sát tế một con chiên (gọi là chiên Vượt Qua); nhưng khi thực hiện Giao ước Mới thì Giao ước được đóng ấn bằng việc sát tế chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – Đấng được tuyên xưng là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 29).
Như vậy là đã rõ, Cựu Ước đã đóng ấn giao ước bằng cách sát tế một con vật (chiên, bò). “Do đó, nếu không có máu, thì đã không khai mạc giao ước thứ nhất. Quả thế, sau khi ông Mô-sê công bố cho toàn dân mọi điều răn như đã ghi chép trong Sách Luật, thì ông lấy máu các con bê, con dê hoà lẫn với nước, rồi dùng len đỏ thắm và cành hương thảo mà rảy trên chính cuốn Sách Luật cũng như trên toàn dân và nói: Đây là máu giao ước, Thiên Chúa đã truyền cho anh em tuân giữ. Rồi, cũng theo cách thức đó, ông rảy máu vào lều thánh và mọi đồ phụng tự. Chiếu theo Lề Luật, hầu hết mọi sự đều được thanh tẩy bằng máu. Không có máu đổ ra, thì không có ơn tha thứ.” (Dt 9, 18-22)
Bước sang Tân Ước thì chính Đức Giê-su đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giê-su giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Thật vậy, “Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.” (Dt 9, 11-14).
Trong mỗi Thánh Lễ – một cuộc tái hiện Hy tế Thập Giá của Chúa Giê-su Ki-tô – thì việc cử hành Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm, là trọng điểm. Cùng với nghi thức Truyền Phép Thánh Thể, vị chủ tế nhắc lại chính Lời của Đấng Cứu Độ – hiện thân Lòng Thương Xót: “Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em” và “Đây là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu”. Mình của Đức Giê-su Ki-tô bầm giập, nát bấy vì đòn roi, gai góc, Máu từ Trái Tim Người bị đòng, giáo, gươm, đao tội lỗi loài người đâm thâu, không chỉ ở trên Gôn-gô-tha năm xưa, mà cho đến tận ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Tất cả là tấm bánh huyền diệu nằm trong một trái tim ngút ngàn Máu và Nước (Máu Dưỡng Nuôi + Nước Thanh Tẩy) của suối nguồn Tình Yêu. Mầu nhiệm Thánh Thể cũng là trung tâm của đời sống Giáo Hội. Mà Giáo Hội là một cộng đồng hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa Ba Ngôi. Toàn thể Giáo Hội đều cùng uống chung một chén, cùng ăn chung một tấm bánh, để cùng thi hành chung một sứ mạng: Rao giảng Tin Mừng Cứu Độ (“Người đã thiết lập trong Giáo hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ diệu, vừa là dấu chỉ vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo hội. Người ban cho các môn đệ Người một giới răn mới là tình yêu thương nhau, và hứa ban Thánh Thần an ủi, Ðấng vừa là Chúa, vừa ban sự sống để ở với họ mãi mãi.” – SL về Hiệp Nhất ”Unitatis redintegratio”, số 2).
Tóm lại, Hội Thánh được sinh ra từ mầu nhiệm Vượt Qua. Chính vì lý do này mà Thánh Thể, bí tích trỗi vượt của mầu nhiệm Vượt Qua, nằm ở trung tâm của đời sống Hội Thánh. (Thông điệp Hội Thánh từ Thánh Thể “Ecclesia de Eucharistia” (số 3) đã khẳng định: “Việc thiết lập Bí tích Thánh Thể dự kiến cách bí tích các biến cố sắp xảy ra, khởi đầu với sự hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni. Một lần nữa chúng ta thấy Đức Giê-su như thể Người rời khỏi phòng Tiệc ly, cùng với các môn đệ xuống thung lũng Kít-rôn và đến vườn Cây Dầu. Trong Vườn này, ngày nay còn có một vài cây Ô-liu cổ thụ. Có lẽ chúng đã chứng kiến điều đã xảy ra dưới bóng chúng vào chiều hôm ấy, khi Đức Ki-tô lâm cơn xao xuyến bồi hồi trong khi cầu nguyện “và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (x. Lc 22, 44). Máu mà ít lâu trước đó Người đã ban cho Hội Thánh như của uống ban ơn cứu độ trong Bí tích Thánh Thể, đã bắt đầu đổ ra; việc tuôn đổ đó sẽ hoàn tất tại đồi Gôn-gô-tha để trở nên phương thế cứu chuộc chúng ta: “Đức Ki-tô... như vị Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai… đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9,11-12).”
Người Ki-tô hữu khi tham dự Thánh lễ, được trực tiếp chiêm niệm cuộc Tử nạn và Phục sinh của Chúa, biến cố trung tâm của ơn cứu độ thông qua Giao Ước Máu cực thánh. Hy tế này thật thiết yếu cho việc cứu rỗi nhân loại, nên Đức Giê-su Ki-tô đã hoàn tất hy tế đó và chỉ trở về với Chúa Cha sau khi đã để lại cho Hội Thánh một phương thế để thông dự vào hy tế đó. “Vì thế, mọi tín hữu có thể tham dự và cảm nếm vô vàn hoa trái của hy tế đó. Đó là niềm tin mà các thế hệ Ki-tô hữu trong mọi thời đại đã sống. Huấn quyền của Hội Thánh đã không ngừng hân hoan xác nhận niềm tin này và tỏ lòng biết ơn vì quà tặng vô giá ấy. Tôi muốn nhắc lại chân lý này một lần nữa và cùng với anh chị em yêu dấu, tôn thờ mầu nhiệm này: mầu nhiệm cao cả, mầu nhiệm của lòng thương xót. Đức Giê-su còn có thể làm gì cho chúng ta hơn nữa chăng? Thật thế, trong Thánh Thể, Người tỏ bày cho chúng ta một tình yêu “cho đến cùng” (x. Ga 13,1), một tình yêu không thể đo lường được.” (Thông điệp Hội Thánh từ Thánh Thể Ecclesia de Eucharistia, số 11).
Ôi! “Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã trối lại cho chúng con bí tích Mình Và Máu Thánh Chúa, để chúng con đời đời tưởng nhớ Chúa đã chịu khổ hình và sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết một niềm sùng kính mến yêu bí tích kỳ diệu này để luôn được nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô)
JM. Lam Thy ĐVD.