Nhảy đến nội dung

Giêrêmia - Con người của Lời Chúa

GIÊRÊMIA –CON NGƯỜI CỦA LỜI CHÚA

Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O.Cist.

Khi Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng thì nhiều người nghĩ rằng Ngài là ngôn sứ Giêrêmia (x. Mt 16, 13-14). Tại sao thế? Bởi vì Giêrêmia là một người bạn của Thiên Chúa, ông có một nỗi đam mê mãnh liệt đối với Đấng đã gọi ông. Ông là một người say mê lời của Thiên Chúa, sống độc thân và chịu nhiều đau khổ vì lời của Thiên Chúa mà ông đã rao giảng. Ông có nhiều nét giống Chúa Giêsu. Kinh Thánh cho chúng ta thấy hành trình ơn gọi của Giêrêmia, tâm tình của ông khi đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, và nỗi say mê của ông đối với lời của Thiên Chúa, để qua đó chúng ta cũng nhận ra ý nghĩa ơn gọi của mình, tâm tình chúng ta cần phải có trong việc đáp lại tiếng gọi của Chúa, và mối tương quan giữa chúng ta với lời Chúa.

  1. Hành trình ơn gọi của ngôn sứ Giêrêmia

Giêrêmia là người liên lỉ tìm kiếm ý nghĩa ơn gọi của mình qua sứ vụ của ông. Thánh Phaolô đã chú ý đến Giêrêmia khi thánh nhân tìm kiếm căn tính của mình. Ngài nói: “Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ (x. Gr 1, 5) và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người (x. Is 49, được viết dưới ảnh hưởng của Giêrêmia). Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1,15-16).

Thần học của Giêrêmia về ơn gọi không thể tách lìa khỏi cá tính của ông. Điều ông viết bùng phát từ trái tim ông, đôi khi có những đoạn chẳng êm dịu chút nào. Thần học về ơn gọi của Giêrêmia trào ra từ một cuộc đời đầy kích động với những nỗi thống khổ, bối rối và liên lỉ kiếm tìm.

Sáu năm đầu của Giêrêmia là những năm đầy phấn khích vì tràn trề hy vọng. Rồi ông bị sốc khi vua Giôsia bị tử trận ở Megiddo (2 V 23, 29-30). Người kế vị Giôsia  là vua Giơ-hô-gia-kim, một kẻ bội giáo, đã phục hồi việc thờ tự các thần ngoại giáo tại Giêrusalem.

Giêrêmia ghi lại nỗi thống khổ của mình trong phần được gọi là "những lời tự thuật". Trong phần này, ông đã viết một trong những câu sâu sắc nhất trong toàn bộ Kinh Thánh: "Lạy Đức  Chúa, Ngài biết con và Ngài thấy rõ, Ngài dò xét lòng con, lòng con ở bên Ngài" (Gr 12,3). (Trong tiếng Do Thái câu này có ý nói: "Chúa đã bước đi cùng với con. Khi con chìm ngập trong bóng tối của tâm hồn, Chúa có ở đó với con không?") Giêrêmia đã phải tìm kiếm Thiên Chúa trong bóng tối. Câu trả lời của Thiên Chúa được chính ông viết sau một thời gian dài cầu nguyện: "Ngươi chạy với người đi bộ mà còn nhọc mệt, thì chạy đua với ngựa làm sao? Nếu ngươi chỉ thấy an tâm trong một xứ thái bình, thì trong bụi rậm sông Giođan, an tâm làm sao được?” (Gr 12,5)

Chúng ta có thể suy nghĩ, nghiền ngẫm và cầu nguyện dựa trên những lời này của ông. Những lời này có ý nói: "Này Giêrêmia, mọi sự bây giờ có vẻ tệ hại, nhưng sau này sẽ khá hơn nhiều." Khi ông viết những lời này như thể là câu trả lời của Thiên Chúa thì ông muốn thưa lại: "Lạy Thiên Chúa của con, con sẽ để tương lai đem đến điều sẽ xảy ra cho con".

Trong một đoạn khác, Thiên Chúa trả lời cho ông: “Nếu ngươi nói điều cao quý thay vì điều hèn hạ, thì ngươi sẽ nên như miệng Ta” (Gr 15,19). Những lời lạ thường này xác nhận: một vài lời nói đã được linh hứng của Giêrêmia vẫn chứa đựng một chút điều xấu pha vào sứ điệp quí báu. Nó chỉ rõ điều rất hiển nhiên mà nhiều vị hoạt động tông đồ đã xem thường và bỏ qua. Giêrêmia đã phải trải qua sự thanh luyện nhằm loại bỏ những điều xấu để lời nói của ông diễn đạt một cách tinh tuyền thánh ý của Thiên Chúa, và ý tưởng về ơn gọi của ông càng phải được thanh luyện nhiều hơn nữa. Không một thử thách nào làm héo hon tâm hồn một cách đau đớn hơn việc phải thanh luyện chính những ước mơ và hy vọng của người đó. Điều này xảy đến khi vị tông đồ bước vào bóng tối ngày càng dày đặc hơn của đức tin, được dẫn dắt bởi một xác tín duy nhất là Thiên Chúa có đó.

Sau cùng, vào lúc cuối đời, Giêrêmia viết câu chuyện về ý nghĩa ơn gọi của ông. Nó bắt đầu với những lời rất thân mật mà Thiên Chúa nói với ông: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi,Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân" (Gr 1, 5).

Thiên Chúa đến với Giêrêmia trước. Không có gì cản trở được phúc lành của Thiên Chúa. Việc một hài nhi ra đời không phải là chuyện ngẫu nhiên. Mỗi người đều là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Mỗi người có một lịch sử duy nhất và độc đáo. Giêrêmia được Thiên Chúa tuyển chọn trước khi ông lọt lòng mẹ. Thiên Chúa đã tuyển chọn ông từ thuở đời đời.

Qua bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta được mời gọi để trở thành ngôn sứ, tư tế, và vương giả. Đạo chúng ta là đạo yêu thương và khởi điểm của đạo là tình yêu của Thiên Chúa dành cho mỗi người. Những mong đợi và ước mơ của Thiên Chúa về mỗi người chúng ta thì vượt xa những tưởng tượng của các bậc cha mẹ yêu thương con cái nhất.

Việc trung tín với đường lối của Thiên Chúa, kiên trì trong một cuộc đời công chính và sống trong bình an cần được bắt đầu bằng sự hiểu biết về tình yêu của Thiên Chúa. Trong thâm tâm, chúng ta phải có một sự xác tín mạnh mẽ rằng, Thiên Chúa yêu thương và tin tưởng vào chúng ta, đến nỗi Ngài muốn và cần chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài.

Một xác tín nội tâm được thành hình như thế nào? Trong trường hợp Giêrêmia, nó đòi hỏi các giấc mơ tông đồ của ông phải bị đè bẹp như một căn nhà bằng giấy. Một cách nào đó ông phải chấp nhận những thất bại và khó khăn. Chỉ khi ấy ông mới có thể nói với tấm lòng thành thực: nỗi khao khát Thiên Chúa của tôi không gì khác hơn là chính nỗi khao khát của Thiên Chúa dành cho tôi. Đây là đích điểm của việc kết hiệp riêng tư với Thiên Chúa trong một tình yêu tinh ròng nhất. Đây là ơn gọi trong ý nghĩa chân thực nhất của nó.

  1. Tâm tình của Giêrêmia khi đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa

“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con” (Gr 20,7).

Bản dịch Kinh Thánh Giêrusalem dùng chữ "quyến rũ" còn bản New Revised Standard dùng chữ "dụ dỗ". Nếu chúng ta để ý đến các sắc thái khác nhau của hai từ này, chúng ta sẽ nhận ra ý nghĩa đích thực của bản chất dục tính trong cuộc gặp gỡ này giữa Thiên Chúa và Giêrêmia. Trên đây chúng ta đã xét đến khung cảnh theo tầm nhìn của Thiên Chúa, bây giờ chúng ta xét nó theo tầm nhìn của Giêrêmia. Các cảm xúc của ông thật trái nghịch.  Cảm tưởng của ông về ơn gọi của mình bị kiềm chế bởi một chút nghi ngờ và thất vọng.

Thiên Chúa đang gợi lên những đam mê của ông. Dấn thân cho Thiên Chúa thì không hoàn toàn giống như ký kết vào một bản hợp đồng làm ăn. Nó giống như một khế ước hôn nhân. Làm việc với Thiên Chúa có nghĩa là sống trong tình yêu với Thiên Chúa và những điều thuộc về Thiên Chúa, bị thiêu đốt bởi lửa nhiệt thành của Thiên Chúa, sống nhiệt tình trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Bị thúc đẩy bởi tình yêu Thiên Chúa, Giêrêmia đã tự nguyện chọn lựa hiến dâng tất cả. Ông dâng hiến trọn vẹn, nhưng lại cảm thấy bị áp đảo.

Kinh Thánh đã sử dụng một ngôn ngữ rất mạnh. Cách thức duy nhất mà Thiên Chúa có thể khuất phục được Giêrêmia là để cho ông cảm nghiệm được tình yêu say đắm, nỗi khát khao mãnh liệt mà Thiên Chúa dành cho ông.  Điều cần thiết để cho một người tự nguyện bước vào mối liên hệ yêu thương với Thiên Chúa là để cho người ấy nhận ra Thiên Chúa say mê người ấy như thế nào. Tình yêu của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn bất cứ sức mạnh nào của con người. Thiên Chúa khao khát sự đáp lại của con người, Thiên Chúa khao khát mở rộng Nước Trời cho tất cả mọi người. Thiên Chúa là một người tình rất đòi hỏi. Không một sự đáp trả nửa vời nào được dung thứ. Làm việc cho Thiên Chúa là một công việc toàn thời gian, không chỉ giữ các giờ kinh và giờ lễ trong nhà nguyện là đủ. Giêrêmia được kêu gọi không chỉ để loan báo lời Thiên Chúa, nhưng còn được kêu gọi để sống cho Thiên Chúa nữa, chỉ sống cho một mình Thiên Chúa mà thôi.  

Dĩ nhiên, tiếng kêu của Giêrêmia về mức độ mãnh liệt của mối liên hệ giữa ông với Thiên Chúa cũng được dành cho mọi người có lòng tin. Không gì có thể làm no thoả cơn đói khát của trái tim con người, và làm thoả mãn nỗi say mê tìm kiếm của tinh thần con người, ngoại trừ việc bước vào mối liên hệ yêu thương một cách mãnh liệt và say đắm với Thiên Chúa. Yêu mến và tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa là con đường duy nhất làm triển nở trọn vẹn tất cả các tiềm năng trong mọi lãnh vực của con người.

Có hai yếu tố then chốt trong tiếng kêu của Giêrêmia, Thiên Chúa đã quyến rũ ông và ông đã đồng thuận. Bây giờ chúng ta hãy suy nghĩ về việc Thiên Chúa đã quyến rũ vị ngôn sứ. Đây là một tuyên bố mạnh mẽ của Giêrêmia. Nó xảy đến khi ông bắt đầu sống vai trò của một vị ngôn sứ. Trong thực tế, nó xảy ra ngay sau khi ông bị bắt và bị hành hạ vì đã loan báo lời của Thiên Chúa.

Giêrêmia đã cảm nghiệm được những hệ quả của việc trung tín với Thiên Chúa trong hoàn cảnh thối nát về chính trị và xã hội. Ông đã chịu đau khổ trong cảnh tù tội. Và ông la lên: Thiên Chúa đã quyến rũ ông. Ông đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa tới mức độ ông không thể từ chối nó. Ông không nói rằng Thiên Chúa đã ra lệnh hay đe doạ ông. Ông không diễn tả nỗi sợ hãi; đúng hơn ông thừa nhận rằng Thiên Chúa đã làm ông say mê; ông không thể và không muốn cưỡng lại tình yêu của Ngài. 

Thiên Chúa là tình yêu và Thiên Chúa là người tình vĩ đại nhất trong mọi thời. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể làm nảy sinh và hướng dẫn một cảnh tượng tình yêu như thế. Giêrêmia biết điều này. Mặc cho các hệ quả hết sức đau thương của tình yêu này: tù tội và bị tra tấn, ông vẫn hân hoan vui sướng trong tình yêu Thiên Chúa. Lòng say mê Thiên Chúa thì mãnh liệt đến nỗi nó lấn át mọi sự kháng cự. Đối diện với những thực tại đau thương xảy ra vì việc loan báo lời Thiên Chúa của mình, Giêrêmia vẫn tuyên xưng tình yêu và lòng say mê Thiên Chúa của ông. 

Các cơn khủng hoảng sàng lọc và loại bỏ những động lực và nơi nương tựa hời hợt. Nếu tình yêu vẫn còn tồn tại, nó sẽ chi phối tất cả. Lời mời gọi ra đi loan báo bình an của Thiên Chúa cho mọi người là một lời mời gọi phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa trong tình yêu. Giêrêmia đã nắm chắc tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình, đến mức ông không thể làm bất cứ điều gì khác hơn là chấp nhận, phó thác tất cả cho Thiên Chúa. Tấm gương của ông cho thấy việc gắn bó với Thiên Chúa không phải là một chọn lựa có tính toán. Nó làm người ta chìm vào một tình yêu say đắm và không thể nào quay trở lại được.

Giêrêmia chỉ rõ mầu nhiệm đức tin lớn lao nhất là mầu nhiệm về ơn gọi, mầu nhiệm về mối liên hệ giữa một cá nhân với Thiên Chúa và mầu nhiệm của Thiên Chúa đối với người ấy. Đức tin luôn luôn là một vấn đề của hy vọng vượt quá tầm nhìn. Nếu đức tin chỉ được thấy rõ ràng sau khi con người chết thì ơn gọi có thể không bao giờ hiểu được lúc khởi điểm của cuộc sống, nhưng chỉ vào lúc cuối đời. 

Theo Giêrêmia, ơn gọi công bố sự cần thiết phải tin tưởng vào các trực giác của con người. Một ơn gọi bắt đầu bằng việc đáp ứng một cơ hội cụ thể, nhưng điều nâng đỡ ơn gọi lại là một trực giác không rõ ràng và giấu ẩn, chỗ mà Thiên Chúa hiện diện, thuyết phục người ta tiến bước, tìm kiếm điều mà người ta còn chưa hiểu. Tin tưởng vào trực giác là tín thác vào một gợi hứng kín ẩn của Thiên Chúa. Vì thế, tin tưởng vào các trực giác là vâng phục và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.

Giêrêmia là con người của cầu nguyện. Chỉ dẫn chắc chắn nhất của trực giác của một con người sống theo ý Thiên Chúa là khả năng sống trong bình an giữa tối tăm và bí nhiệm. Đó là lúc Thiên Chúa hiện diện gần gũi với người ấy nhất, điều này vượt quá khả năng diễn tả bằng lời nói, vượt quá những chân trời của tri thức, và chỉ cho phép trái tim tìm kiếm một sự kết hiệp huyền nhiệm và mật thiết với Thiên Chúa. Trong cuộc tìm kiếm một sự kết hiệp huyền nhiệm như vậy, cuối cùng người ấy sẽ hiểu được ý nghĩa về điều mà Thiên Chúa đã muốn trước khi người ấy thành hình trong lòng mẹ.

  1. Giêrêmia, con người của Lời Chúa

Giêrêmia là người say mê lời của Thiên Chúa. Ông nói: “Tâm can tôi tan nát, xương cốt tôi rã rời. Tôi nên như người say, nên như người bứ rượu, cũng chỉ vì Đức Chúa, vì thánh ngôn của Người” (Gr 23,9).

Đối với Giêrêmia, lời Chúa là một ngọn lửa thiêu đốt ông “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr  20, 9). Vì thế, lời Chúa có sức biến đổi con người. Người ta không thể để cho lửa chạm đến mình mà vẫn còn y nguyên. Việc tiếp xúc với Lời Chúa hằng sống nung nấu chúng ta, thách thức chúng ta, lôi kéo chúng ta. Người rao giảng Lời Chúa phải thâm nhuần lửa. Chúa hứa với Giêrêmia: “Ta sẽ làm cho các lời của Ta thành lửa nơi miệng ngươi, và sẽ biến dân này thành củi cho lửa ấy thiêu đốt” (Gr 5, 14). Lời mà Giêrêmia rao giảng là ngọn lửa thiêu đốt ông trước đã, rồi đến lượt những người nghe ông rao giảng lời của Thiên Chúa.

Vấn đề nằm ở chỗ, chúng ta có biết tận dụng những gợi hứng mà lời Chúa khơi dậy trong tâm hồn của chúng ta  hay không? Có lẽ điều tốt nhất là chúng ta tự hỏi chính mình: Chúng ta có tương quan nào với lời Chúa? Làm thế nào để nuôi dưỡng mình từ những trang sách đã giúp chúng ta  nhận ra sự hiện diện của Chúa, Đấng đang hoạt động trong lịch sử của cuộc đời mình? Và những trang sách nào giúp chúng ta  bắt đầu một ngày mới với ý chí quyết tâm sống yêu thương, làm những việc tốt, với sức mạnh phát xuất từ tình yêu của Chúa Thánh Thần? Nếu lời Chúa trở nên thinh lặng là vì chúng ta đã lơ là chểnh mảng. Vì tự phụ đã biết rõ lời Chúa rồi nên chúng ta đã không lắng nghe một cách mến yêu, và kín múc sức mạnh từ lời Chúa.  

Kết:

Giêrêmia đã để cho lời của Thiên Chúa chi phối toàn bộ cuộc đời của ông. Ông là con người của lời Chúa, con người mà số phận có thể nói được rằng đã đồng hóa với lời Chúa. Nếu dân chúng đón nhận lời Chúa cũng sẽ đón nhận ông, và trong thực tế khi họ loại bỏ lời của Thiên Chúa thì họ cũng loại trừ Giêrêmia. Lời của Thiên Chúa thúc đẩy ông chịu liên lụy vì yêu mến Đấng đã lên tiếng. Ông đã có lúc muốn kháng cự lại lời Chúa, nhưng lời Chúa lay động ông và cuối cùng ông tự thú nhận: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20,7).