Hạnh Các Thánh: 16-20/1
- CN, 26/01/2025 - 16:13
- Trầm Thiên Thu
HẠNH CÁC THÁNH 16-20/1
16/1 – Thánh Berard và các bạn tử đạo (qua đời năm 1220)
Rao giảng Phúc âm thường là công việc nguy hiểm. Rời quê hương để hòa nhập với nền văn hóa mới, chính phủ mới và ngôn ngữ mới là điều khó, nhưng việc tử đạo đôi khi vượt qua tất cả các hy sinh khác.
Năm 1219, nhận phép lành của thánh Phanxicô, Berard đã rời nước Ý cùng với Peter, Adjute, Accurs, Odo và Vitalis đi truyền giáo ở Morocco. Trên đường đi Tây ban nha, Vitalis bị bệnh và nói các tu sĩ khác cứ tiếp tục sứ vụ dù không có mình đi cùng. Họ truyền giáo ở Seville, rồi bị người Hồi giáo bắt, nhưng họ không bỏ đạo. Họ tiếp tục đến Morocco và truyền giáo ở nơi phố thị. Các tu sĩ bị buộc phải rời khỏi nước nhưng họ không đi. Khi bắt đầu giảng lại, vua Hồi giáo tức giận ra lệnh hành quyết họ. Sau khi chịu đựng tra tấn và bị dụ dỗ từ bỏ Chúa Giêsu Kitô, các tu sĩ Phanxicô bị chính vua Hồi giáo chém đầu vào ngày 16/1/1220.
Đây là các vị tử đạo của dòng Phanxicô. Khi thánh Phanxicô biết tin, ngài tuyên bố: “Bây giờ tôi nói thật rằng tôi đã có năm Tu sĩ Hèn mọn!”. Di hài các tu sĩ được đưa về Bồ đào nha, nơi họ đã thúc đẩy một thanh niên gia nhập dòng Phanxicô và lên đường đi Morocco vào năm sau. Thanh niên này là Anthony ở Padua. Năm vị tử đạo này được phong thánh năm 1481.
17/1 – Thánh Antôn, Viện phụ (251-356)
Cuộc đời thánh Antôn nhắc chúng ta nhớ đến thánh Phanxicô Assisi. Lúc 20 tuổi, Antôn được đánh động bởi câu Phúc âm: “Hãy bán những gì bạn có và cho người nghèo” (Mc 10:21b), nên ngài đã làm y vậy với tài sản thừa kế to lớn của ngài. Ngài khác với thánh Phanxicô Assisi, hầu hết cuộc đời thánh Antôn sống trong cô tịch. Ngài thấy thế gian hoàn toàn đầy những cạm bẫy, ngài cho Giáo hội và thế giới thấy sự khổ tu trong cô tịch, hành xác và cầu nguyện. Không thánh nhân nào phản xã hội, Antôn đã lôi kéo nhiều người đến với ngài nhờ hướng dẫn và chữa lành tâm hồn.
Lúc 54 tuổi, ngài đáp lại yêu cầu của nhiều người và thành lập một loại dòng có nhiều phòng nhỏ nằm rải rác. Ngài lại giống thánh Phanxicô Assisi là ngài rất sợ “những tòa nhà sang trọng với những chiếc bàn đầy đồ ăn”.
Lúc 60 tuổi, ngài muốn tử đạo trong thời Đế quốc Rôma bách hại kiểu mới năm 311, ngài không sợ nguy hiểm khi đến các nhà giam để hỗ trợ tinh thần và vật chất. Lúc 88 tuổi, ngài đấu tranh với dị giáo Arian, những chấn thương của Giáo hội từ nhiều thế kỷ qua được hồi phục.
Thánh Antôn kết hợp nghệ thuật với Thánh giá hình chữ T, con heo và cuốn sách. Con heo và Thánh giá là biểu tượng chiến đấu can trường của ngài với ma quỷ. Thánh giá mang là sức mạnh của ngài vượ qua ma quỷ, con heo là biểu tượng của ma quỷ. Cuốn sách nhắc nhớ “cuốn sách của thiên nhiên” hơn hẳn những lời được in ấn. Thánh Antôn qua đời trong cô tịch lúc 105 tuổi.
18/1 – Thánh Charles Sezze (1613-1670)
Charles nghĩ rằng Thiên Chúa gọi mình đi truyền giáo ở Ấn độ, nhưng Thiên Chúa có cách khác tốt hơn cho người kế vị Juniper hồi thế kỷ XVII.
Charles sinh tại Sezze, Đông Nam Rôma, được cuộc đời của Salvator Horta và Paschal Baylon đánh động trở thành tu sĩ dòng Phanxicô năm 1635. Ngài cho chúng ta biết trong tự truyện của ngài: “Thiên Chúa đặt trong tâm hồn tôi một quyết định trở thành tu sĩ với ước muốn sống khó nghèo và hành khất vì tình yêu Thiên Chúa”. Ngài làm việc nấu ăn, khuân vác, lo việc phòng thánh (sacristan), làm vườn và hành khất ở nhiều tu viện tại Ý. Bằng nhiều cách, ngài là “tai họa ngẫu nhiên”. Có lần ngài làm lửa cháy lớn trong nhà bếp vì dầu phi hành bốc cháy.
Có một chuyện về cách ngài hoàn toàn theo tinh thần thánh Phanxicô. Bề trên sai ngài – lúc đó là phu khuân vác – đem thức ăn cho những người hành khất đến xin ở cửa nhà dòng. Ngài vâng lời đem cho thì đồ ăn cho các tu sĩ giảm. Ngài thuyết phục bề trên hai việc có liên quan. Khi các tu sĩ tiếp tục bố thí cho những người xin ngoài cửa, thức ăn cho các tu sĩ lại tăng.
Theo ý cha giải tội, ngài viết cuốn tự truyện The Grandeurs of the Mercies of God (Sự cao thượng của Lòng Chúa Xót Thương). Ngài còn viết vài cuốn sách về tâm linh khác. Ngài giúp ích cho những người hướng dẫn tinh thần trong nhiều năm. Họ giúp ngài nhận biết những gì là tư tưởng hoặc ước vọng của mình đến từ Thiên Chúa. Người ta tìm được những lời khuyên tâm linh ở ngài. Khi đang hấp hối, ĐGH Clement IX gọi ngài đến bên giường để chúc lành.
Thánh Charles vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cha Severino Gori nói: “Bằng lời nói và gương lành, Charles đã triệu hồi các nhu cầu theo đuổi vĩnh hằng” (Leonard Perotti, Thánh Charles Sezze: Tự truyện, trang 215). Ngài qua đời tại San Francesco ở Rôma và được an táng tại đó. ĐGH Gioan XXIII phong hiển thánh cho ngài năm 1959.
18/1 – Thánh Magarita Hungary, Trinh nữ (1242-1271)
Bà là con gái của vua Bela IV và công nương Mary Lascaris, nước Hungary. Bà được dâng cho Thiên Chúa trước khi sinh, với ước thề cho đất nước thoát khỏi sự đàn áp hung hãn của người Tartar. Nhà vua và phu nhân đã đặt của cải và đứa con 3 tuổi để thề hứa tại Dòng Đa Minh ở Vesprim. Tại đây, cùng với những đứa trẻ con các nhà quý tộc khác, Magarita được đào tạo về nghệ thuật cho hợp với hoàng gia.
Margarita không muốn sống đơn giản như vậy, bà muốn trở thành tu sĩ, và được mặc áo dòng khi bà mới 4 tuổi. Lớn lên, bà sống khắc khổ bằng cách ăn chay, mặc áo nhặm, giữ nghiêm ngặt tu luật, và ít ngủ ban đêm. Khi Margarita 18 tuổi, người cha bắt bà về nhà, vì vua Ottokar của Bohemia nghe nói về sắc đẹp của bà và muốn kết hôn với bà. Bà không chịu, bà nói bà đã dâng hiến cho Thiên Chúa.
Bà có lòng sùng kính Đức Mẹ. Trước ngày lễ Đức Mẹ, Margarita thường đọc 1.000 kinh Kính Mừng. Không thể tới Thánh Địa, Rôma, hoặc các đền thờ nổi tiếng, bà chỉ biết đọc nhiều kinh Kính Mừng. Thứ Sáu Tuần Thánh, bà khóc suốt ngày vì nghĩ đến Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Bà thường xuất thần, và bà rất lúng túng nếu có ai bắt gặp. Đã có những phép lạ xảy ra ngay khi bà còn sống. Bà qua đời ngày 18-1-1271 tại Budapest, Hungary, khi mới 29 tuổi. Di hài bà được trao cho Dòng Thánh Clara tại Pozsony khi Dòng Đa Minh bị dissolved; most relics were destroyed năm 1789, nhưng portions still preserved tại Gran, Gyor, Pannonhalma. Bà được phong chân phước ngày 28-7-1789, và được ĐGH Piô XII phong hiển thánh năm 1943.
18/1 – Chân phước Christina Ciccarelli (qua đời năm 1543)
Bà sinh tại Abruzzi, Ý. Tên rửa tội của bà là Matthia. Lớn lên, bà thấy say mê sống cầu nguyện và hãm mình. Bà vào Dòng Thánh Augustinô ở Aquila, lấy tên dòng là Christina.
Bà sống âm thầm và ẩn dật, nhưng nhiều người vẫn tìm đến với bà. Bà thương yêu và giúp đỡ người nghèo, luôn hành động vì lợi ích của người khác. Bà cầu nguyện và đền tội cho họ.
Chúa đã dùng bà để làm nhiều phép lạ cho người ta. Khi bà qua đời, trẻ em ở Aquila ùa ra đầy đường và hô lớn: “Nữ tu thánh đã qua đời”. Đó là ngày 18-1-1543. Rất nhiều người đến kính viếng bà, tạ ơn bà đã làm nhiều điều tốt lành cho họ và cho thành phố của họ.
19/1 – Thánh Canute, Tử đạo (qua đời năm 1086)
Thánh Canute là vua Đan Mạch, vừa có biệt tài cưỡi ngựa, vừa là người chỉ huy tài giỏi.
Bắt đầu triều đại, ngài đã chống lại những người vô văn hóa đe dọa chiếm lĩnh thế giới văn minh. Ngài đã chỉ huy binh sĩ chiến thắng địch quân. Ngài yêu quý đức tin Công giáo đến nỗi ngài giới thiệu với những người chưa hề nghe nói tới Kitô giáo.
Ngài vào nhà thờ, quỳ dưới chân bàn thờ và dâng vương miện của mình cho Chúa Giêsu, Vua các vua. Ngài sống bác ái, dịu dàng với mọi người, cố gắng giúp đỡ họ vượt qua khó khăn. Ngài muốn giúp họ trở thành những người thực sự theo Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, cuộc biến loạn bùng nổ vì ngài ra luật ủng hộ Giáo hội. Một số người đến nhà thờ, nơi ngài đang cầu nguyện, và ngài biết điều gì sắp xảy ra. Ngài bảo quân thù ra ngoài, rồi ngài xưng tội và rước lễ. Ngài không oán giận kẻ thù. Sau đó ngài tiếp tục cầu nguyện, và ngay lúc đó ngài bị giết. Đó là ngày 10-7-1086.
20/1 – Thánh Fabianô, Giáo hoàng Tử đạo (khoảng năm 250)
Khi thánh GH Anthêrô qua đời năm 236, một Công đồng được triệu tập về Rôma để bầu người kế vị. Fabianô là thường dân Rôma, từ vùng quê nhập cư thành phố với tư cách là giáo sĩ, và người ta đang chuẩn bị bầu Giáo hoàng mới. Và tân giáo hoàng chính là Fabianô, người Ý.
Theo Eusebius, sử gia của Giáo hội, một chim bồ câu bay vào và đậu trên đầu Fabianô. Dấu hiệu này khiến mọi người đồng tâm nhất trí bầu ngài. Ngài là người lãnh đạo xuất sắc, tổ chức cấu trúc giáo xứ như vẫn được áp dụng ngày nay. Ngài phát triển thói quen và các nghi lễ tôn vinh các tvị tử đạo trong các hầm mộ, và bổ nhiệm 14 học giả thu thập chứng cớ đời sống của các vị tử đạo để họ không bị quên lãng.
Ngài cai trị Giáo hội 14 năm và chịu tử đạo khoảng năm 250 trong thời Decius bách hại. ĐGH Fabianô bị họ hành quyết rất dã man. Thánh Cyprianô viết cho người kế vị rằng ĐGH Fabianô là người “độc nhất vô nhị” được vinh dự chết tương xứng với sự thánh thiện và sự thuần khiết của cuộc đời ngài. Tại hầm mộ thánh Callistô, dù tảng đá trên mộ thánh Fabianô bị bể làm tư vẫn có thể nhìn thấy dòng chữ Hy lạp ghi: “Fabianô, Giáo hoàng Tử đạo”.
20/1 – Thánh Sebastianô, Tử đạo (257?-288?)
Lịch sử không có gì chắc chắn về thánh Sebastianô, chỉ biết ngài là vị tử đạo Rôma, được tôn kính ở Milan ngay thời thánh Ambrôsiô và được an táng ở Appian Way, có thể ở gần Đền thờ thánh Sebastianô ngày nay. Lòng sùng kính ngài lan tỏa nhanh, và ngài được nhắc đến trong tiểu sử các vị tử đạo từ năm 350.
Truyền thuyết về thánh Sebastianô quan trọng về nghệ thuật và có cách mô tả bằng hình tượng. Các học giả ngày nay đồng ý rằng có chuyện kể thánh Sebastianô gia nhập quân đội Rôma vì chỉ như vậy ngài mới có thể giúp các vị tử đạo mà không tạo sự nghi ngờ.
Cuối cùng ngài bị phát hiện, bị bắt trước mặt Hoàng đế Diocletian và bị giao cho đội bắn cung Mauritanian. Thi thể ngài đầy mũi tên găm vào và bị bỏ mặc. Nhưng những người đến lấy xác đem chôn thì thấy Ngài còn sống. Ngài bình phục nhưng không chịu trốn đi. Một hôm, ngài đứng gần chỗ Hoàng đế đi ngang qua. Ngài đến gần Hoàng đế và tố cáo Hoàng đế đối xử độc ác với các Kitô hữu. Lần này ngài bị bắt và bị kết án tử hình. Thánh Sebastianô bị đánh đập đến chết.
Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
*********************************************