Hãy lắng nghe tiếng Ngài - Hãy tin cậy Chúa vô điều kiện.
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lại Thế Lãng
Hãy lắng nghe tiếng Ngài
Tác giả: LM. John Riccardo – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Giống như nhiều người trong các bạn, tôi đã biết Chúa từ khi còn là một đứa trẻ. Tôi đã cầu nguyện như tôi có thể còn nhớ.
Nhưng xin đừng coi điều đó có nghĩa là tôi đã luôn trung thành trong những bước đi trong tư cách là một Kitô hữu. Giống như rất nhiều người, tôi cố tình từ chối quyết định theo Chúa Giêsu vì tôi sợ chết khiếp về điều gì sẽ xầy ra với tôi nếu tôi theo Chúa. Điều đó nghe có quen thuộc không?
Có một tiếng nói trong đầu tôi – và tôi nghĩ rằng tiếng nói đó cũng có trong đầu của nhiều người. Nó nói đi nói lại “Đừng vào! Nếu bạn vào và đầu hàng Chúa Giêsu, bạn sẽ bị mất căn tính của minh và tất cả mọi thứ bạn yêu thích”. Nó nói “Đừng vào! Nếu bạn vào, bạn sẽ mất quyền kiểm soát cuộc sống của bạn”. Nó nói “Đừng vào! Cuộc sống người Kitô hữu là có thì ít, không có thì nhiều hơn. Nếu bạn hiến mình cho Chúa Giêsu, bạn có thể sẽ không bao giờ có được niềm vui nào nữa”. Nó nói “Đừng vào! Nếu bạn vào, bạn sẽ trở thành một loại kỳ dị nào đó của Chúa Giêsu. Nó nói “ Đừng vào! Nếu bạn vào, Thiên Chúa sẽ bắt bạn làm những điều bạn không muốn làm – những điều bạn ghét. Sẽ quá khó khăn”.
Và rồi tiếng nói đó lại mang tới một một tiếng nói khác còn tàn khốc hơn nhiều. Nó nói “Đừng vào! Bạn không đủ tốt lành – với tất cả những điều bạn đã làm trong cuộc sống của bạn. Nó nói “Đừng vào! Giáo hội là nơi dành cho những người Công giáo siêu đẳng, dành cho tầng lớp ưu việt, những người có tất cả những thứ đó. Bạn nghĩ bạn là ai khi so sánh bản thân bạn với họ?”
Chúng ta hãy đối phó với phản đối cuối cùng trước. Và chúng ta sẽ giải quyết bằng cách nói ra một sự thật phố quát.
Không có “tinh thần ưu việt”
Giáo hội không tồn tại cho một tầng lớp ưu việt, bởi vì không có tầng lớp ưu việt. Tất cả chúng ta đều là con người, tất cả đều ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ, và tất cả cuộc sống của chúng ta bị đảo lộn cách này hay cách khác. Không có linh mục nào có được những thứ đó cũng như không có bất cứ thành viên nào của một cộng đồng tôn giáo nào có được.
Tôi đã là linh mục hơn hai mươi năm nay, và tôi đã nghe hàng ngàn người xưng tội. Tôi có thể bảo đảm với bạn rằng tất cả chúng ta đều là người tội lỗi. Tất cả chúng ta đang cố gắng. Tất cả chúng ta đang đấu tranh với một cái gì đó.
Giáo xứ của tôi không phải là một nơi gặp gỡ cho những người hoàn hảo. Đó là nơi cho bất cứ ai muốn gặp gỡ Chúa Giêsu. Nơi đó là cho những người khao khát nhiều hơn. Nơi đó là dành cho những người muốn có được nhiều hơn những gì thế gian có thể cung cấp, những người tìm kiếm chiều sâu thực sự trong cuộc sống của họ. Nơi dành cho những người hoài nghi rằng Chúa Giêsu đang nói sự thật khi Ngài nói “Tôi đến để cho chúng được sống và sống dồi dào.” (Ga 10: 10)
Tôi không biết bạn thế nào, nhưng tôi muốn nhiều hơn. Nếu có cuộc sống dồi dào, tôi muốn có được nó! Tôi đã thử hầu hết mọi thứ thế giới có thể cung cấp, nhưng không đủ. Tôi có một khao khát lớn hơn thế giới này có thể thỏa mãn. Bên trong tôi có một lỗ hổng mà không có gì có thể lấp đầy ngoại trừ Thiên Chúa và lỗ hổng đó sẽ bị nhức nhối khi nó trống rỗng.
Chúng ta hãy nhìn vào cuộc đời của thánh Augustinô sống cách đây hàng trăm năm. Ông đói khát chân lý; đói khát sự thánh thiện; ông đói khát vẻ đẹp. Và đó không phải là tất cả những gì ông khao khát. Những khao khát về thể chất của Augustinô là rất lớn và ông đã sống một cuộc sống rất thác loạn vì chúng. Ông ước muốn trở thành một Kitô hữu nhưng những trở ngại to lớn đã chặn đường của ông: Sự khiết tịnh đường như là không thể đối với ông.
Rồi một hôm Augustinô cảm nhận môt thị kiến về đoàn ngũ các thánh, trẻ và già, nam và nữ. Và tất cả trong số họ đã quyết định quay đầu lại, hướng cuộc sống đi lối khác, và buông bỏ cho Chúa. Tất cả những người họ đã chấp nhận sự khiết tịnh mà Augustinô nghĩ là ông không thể.
“Bạn có thể không làm những gì những nam nhân này đã làm, những gì các nữ nhân này đã làm?” tiếng nói của một phụ nữ xinh đẹp mà ông gọi là “khiết tịnh” dường như đang nói với ông. Như thể là những thánh nam và thánh nữ trong thị kiến của ông đang cổ vũ ông, đang cầu nguyện cho ông.
Không lâu sau đó Augustinô nghe giọng nói của một trẻ thơ thúc giục ông cầm Thánh Kinh lên và đọc. Ông cầm sách lên và đây là những lời ông mở ra “Hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13: 14)
Vào lúc đó Augustinô đã phó thác đời mình cho Chúa Giêsu. Ông đã đi bước đầu tiên trên con đường sẽ dẫn ông, không chỉ trở thành một trong những nhà thần học vĩ đại nhất trong lịch sử Giáo hội nhưng còn là một trong những bộ mặt quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.
Một lời kêu gọi từ bỏ
Câu chuyện cuối cùng này mang tính cách cá nhân hơn nhiều. Nó đã xẩy ra tại bàn ăn nhà bếp của mẹ tôi. Hai người chúng tôi đang nói chuyện, lan man hết chủ đề này đến chủ đề khác. Cuộc trò chuyện cuối cùng quay sang cha tôi và anh trai tôi, cả hai người đã mất năm ngoái.
Khi chúng tôi nói chuyện, mắt tôi bị thu hút bởi một bức ảnh trên bàn mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy trước đây. Có cha tôi và anh trai tôi đang ngồi ở công viên Comeria, quê hương của những con hổ Detroit. Tôi chưa từng biết rằng hai người họ đã đi một trò chơi với nhau mà không có ai khác trong gia đình. Nhưng họ đã ở đó theo cách họ đã rời bỏ chúng tôi. Và họ đang nhìn chằm chằm ra ngoài từ tấm ảnh. Như thể họ đang nhìn thẳng vào tôi. Và trong một khoảnh khắc khi tôi cầm bức ảnh lên, tôi cảm thấy như thể họ đang nói với tôi điều gì đó như “Cố lên, John! Cậu có thể làm điều này! Hãy thực hiện những bước cuối cùng; hiến thân cho Chúa Giêsu. Cố lên John! Hãy dâng tất cả cho Chúa Giêsu”
Tôi có thể kết luận gì từ chuyện đó? Hai điều. Thứ nhất là Thiên Chúa liên tục nói với chúng ta – nói với chúng ta qua những điều bình thường nhất trong cuộc sống – và rằng những gì Ngài nói với chúng ta là vô cùng quan trọng.
Thứ hai là cái tôi có – bạn có – gia đình và bạn bè đang ở trên thiên đàng. Và họ không đơn giản là chỉ quan sát chúng ta. Họ đang vui mừng cho chúng ta, cổ vũ chúng ta trên hành trình của cuộc sống. Họ đang cầu nguyện cho chúng ta, làm tất cả những gì có thể làm cho chúng ta để chúng ta có thể chạy trong cuộc đua, chiến đấu trong trận chiến. Họ yêu thương chúng ta bằng một tình yêu mà chúng ta khó có thể hiểu được để một ngày nào đó chúng ta nhập đoàn với họ ở một nơi vượt quá mọi mô tả, một nơi mà cuối cùng chúng ta trải nghiệm sự viên mãn của mọi mong ước.
Không có gì quan trọng hơn là dâng mọi sự cho Chúa, và thực sự được bao quanh bởi bởi một đám mây vĩ đại của những nhân chứng sẽ giúp chúng ta làm điều đó. Vậy đừng sợ. Đừng chú ý đến bất cứ những tiếng nói nào nói với bạn rằng “Đừng vào”. Thậm chí không liếc về hướng của họ. Nhưng hãy chú tâm vào tiếng nói lặng lẽ nhưng không ngừng mời gọi bạn từ mọi ngóc nghách của cuộc sống.
“Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta” Chúa Giêsu nói với chúng ta. Và chúng ta sẽ nghe được tiếng Ngài nếu chúng ta cố gắng. Ngài nói với chúng ta liên tục, và những gì Ngài nói là “Hãy vào”. Ngài đứng ở phía bên kia của cánh cửa là khối óc và trái tim chúng ta. Ngài đang chờ đợi chúng ta rơi vào vòng tay của Ngài ngay lúc chúng ta mở tung cánh cửa đó.
Vậy hãy làm điều gì Đấng yêu thương bạn muốn hơn bất cứ ai muốn bạn làm. Hãy lắng nghe tiếng nói của Ngài. Mở cánh cửa mà bạn đã đóng rất chặt và đi vào. Đơn giản là đi vào.
Chúng ta có thể tin tưởng vào Chúa Giêsu để làm phần còn lại./.
**********
Hãy tin cậy Chúa vô điều kiện.
The Word Among Us – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
“Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” (Ga 11: 21)
Mở đầu bộ phim It’s a Wonderful Life, (Đó là một cuộc sống tuyệt vời) hai thiên thần thảo luận về tình trạng của một người đàn ông đang gặp khó khăn trên trần gian tên là George Bailey. George đã phải trải qua những thất vọng to lớn, sự sụp đổ tài chính và chiến tranh; giấc mơ của anh ta đã bị dập tắt. Khi chúng tôi gặp anh ấy, anh ấy đã hết. Nó đã kết thúc đối với anh ấy, anh ấy nghĩ và anh ấy dự tính sẽ lấy đi mạng sống của mình.
Hai thiên thần Franklin và Joseph triệu tập Clarence một thiên thần khác và nói “Chúng tôi sẽ gửi bạn xuống George Bailey. George đang gặp rắc rối lớn ngay bây giờ”. Và Clarence hỏi “Ồ có phải anh ta bị ốm không?” Franklin trả lời “Không, còn tệ hơn, anh ta nản lòng”.
Hãy nghĩ về điều đó. Anh ta bị ốm? Có phải anh ta sắp chết? “Không, còn tệ hơn, anh ta nản lòng. Franklin đúng. Ở một nơi mà bạn nghĩ rằng bạn đã không còn, ở nơi bạn nghĩ rằng nó đã kết thúc thì còn tồi tệ hơn là đối mặt với bệnh tật hoặc cái chết. Từ ngữ “can đảm” xuất phát từ gốc tiếng Latinh cor có nghĩa là “tấm lòng”. Chán nản có nghĩa là nản lòng. Không còn gì khác.
Thời điểm tồi tệ nhất của George Bailey không phải là khi anh ta bị mất cha hoặc khi anh ta suýt mất khoản tiền vay để xây nhà. Khoảnh khắc tồi tệ nhất của anh ta là khoảnh khắc anh ta nản lòng.
Bạn đã bao giờ ở vào trường hợp này chưa? Bạn đã bao giờ nghĩ mọi thứ đã qua; đã xong; tôi còn có thể làm gì? Tôi có thể đi đâu từ đây?
Trong một thế giới đã trở thành bất toàn, chúng ta có thể quen với sự đổ vỡ đến nỗi nản lòng là điều bình thường. Ngay cả cái chết cũng trở thành bình thường.
Một Thiên Chúa khóc và chờ đợi. Tôi nghĩ cái chết là thứ có thể làm tan nát trái tim chúng ta. Cái chết nghiền nát chúng ta. Cái chết thậm chí đã nghiền nát Chúa Giêsu. Khi chọn trở thành một người trong chúng ta, Thiên Chúa toàn năng đã cho phép cái chết đè bẹp Ngài. Và không chỉ cái chết của riêng Ngài.
Trong câu chuyện về Ladarô, Chúa Giêsu đã để cho cái chết của một người bạn làm tan nát lòng mình. Đây là một trong những câu ngắn nhất trong Kinh thánh, chỉ có ba từ sau khi Chúa Giêsu đến mộ và thấy cảnh đau buồn: “Chúa Giêsu khóc” (Ga 11: 35). Mặc dù Ngài biết rằng trong hai phút nữa Ngài sẽ làm cho anh chàng này sống lại từ cõi chết, nhưng Chúa Giêsu đã cho phép trái tim Ngài tan nát trước sự hiện diện của những trái tim tan vỡ khác.
Mỗi khi chúng ta cầu nguyện với Chúa Giêsu, mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ, chúng ta thờ phượng Thiên Chúa với trái tim tan vỡ. Tại sao? Bởi vì Ngài cho phép những gì làm tan vỡ trái tim chúng ta cũng làm tan vỡ trái tim Ngài.
Chúa Giêsu khóc nhưng Ngài cũng chờ đợi. Đây là từ ngữ khó đối với chúng ta. Lời tường thuật của Gioan cho biết rất rõ rằng khi Chúa Giêsu nghe tin Ladarô bị ốm, Ngài đã chờ đợi. Làm sao chúng ta có thể hòa giải điều đó? Nếu Thiên Chúa khóc trước cái chết và để trái tim Ngài tan nát với chúng ta, chúng ta phải làm gì với sự thật rằng Ngài đã chờ đợi để hành động? Tại sao Chúa Giêsu không hành động? Tại sao Ngài không có mặt? Tại sao Ngài chờ đợi? Đây là lời than khóc của Mátta, của Maria và của rất nhiều người trong chúng ta.
Tôi nghĩ rằng Gioan, tác giả sách Phúc âm đang cố gắng dạy cho chúng ta một điểm quan trọng về sự chờ đợi này của Thiên Chúa, một điểm mà ông biết rằng sẽ khó khăn cho chúng ta. Vì vậy, ông nói rất rõ rằng mọi việc Chúa Giêsu làm trong câu chuyện này đều được thực hiện vì tình yêu thương cao cả. Không dưới ba lần ông thu hút sự chú ý đến tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Ladarô, Mátta và Maria (Ga 11: 3, 5, 36).
Mục đích của Gioan là thách thức chúng ta bỏ lại phía sau mối quan hệ có điều kiện với Thiên Chúa. Mối quan hệ có điều kiện dựa trên “nếu, thì”. “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết “(xin xem Gioan 11: 21, 32).
Trong một thế giới đã trở nên bất toàn, chúng ta đã quen với các mối quan hệ có điều kiện. Với sự lựa chọn đầu tiên đó đã phá vỡ thế giới, Sách Giáo lý nói rằng lòng tin đã chết trong trái tim con người (xin xem Sách Giáo lý 397). Trong một thế giới mà cái chết là thực sự, đau khổ và bệnh tật tràn lan và các mối quan hệ trở nên bất toàn, điều tồi tệ nhất có thể bị hủy hoại chính là sự tin tưởng. Chúng ta nản lòng. Vì vậy chúng ta coi là đương nhiên mối quan hệ có điều kiện với nhau. Chúng ta coi là đương nhiên mối quan hệ có điều kiện với Thiên Chúa. Nếu bạn yêu tôi thì bạn sẽ làm điều này cho tôi.
Bên dưới lời phàn nàn của Maria và Mátta, chúng ta có thể nghe thấy một tiếng kêu sâu hơn “Lạy Chúa nếu Chúa yêu thương chúng con, em trai chúng con đã không chết”. Bạn có bao giờ thấy mình đang suy nghĩ hoặc cầu nguyện như vậy không? “Lậy Chúa, nếu Ngài thực sự yêu con thì Ngài sẽ làm điều này”. “Nếu Ngài yêu họ thì Ngài sẽ làm điều kia”. Nếu, thì.
Sau khi lòng tin đã chết trong trái tim Ađam và Evà, phần còn lại của Kinh thánh là về việc Thiên Chúa nói với chúng ta “Các con có thể tin tưởng vào Ta. Ngay cả khi mọi thứ đang sụp đổ, ngay cả khi trái tim các con đang tan vỡ, đừng nản lòng. Ngay cả khi Ta đang chờ đợi, ngay cả khi Ta không xuất hiện, ngay cả khi Ta không ban cho các con những gì các con xin, đừng nản lòng”.
Phép lạ và Tử đạo. Một trong những câu chuyện yêu thích của tôi trong Kinh thánh về việc không nản lòng là từ Sách Đanien. Cuốn sách lấy bối cảnh trong thời kỳ cai trị của người Babylon đối với dân Chúa. Vua Nebuchadnezzar đã chinh phục hai bộ tộc phía nam và phá hủy kinh thành Giêrusalem. Ông cho dựng một bức tượng vàng, ra lệnh rằng mỗi khi có hiệu lệnh thì mọi người phải dừng lại và cúi đầu bái lạy bức tượng.
Ngay sau khi sắc lệnh này được ban hành, Nebuchadnezzar nhận được tin báo từ các quan chức của mình rằng ba người đàn ông Do Thái tên là Hananiah, Azariah và Mishael đã không tuân lệnh. Nebuchadnezzar nổi cơn thịnh nộ và cho họ thêm một cơ hội để tuân thủ “Bây giờ, nếu các ngươi sẵn sàng sấp mình thờ lạy pho tượng ta đã làm . . . Nếu các ngươi không thờ lạy thì tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, liệu có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?” (Đn 3: 15).
Hananiah, Azariah và Mishael đã đứng lên và đưa ra câu trả lời hay nhất mà tôi từng nghe. Đó là điều vang vọng trong suốt lịch sử dành cho tất cả những ai từng gặp nguy hiểm khi có một sự tin tưởng có điều kiện, một mối quan hệ có điều kiện, một trái tim có điều kiện. Họ nói với nhà vua:
“Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này. Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!”(Đn 3: 16- 18).
Đó là một lời tuyên bố về sự tin tưởng vô điều kiện. Không phải “nếu Ngài cứu chúng tôi thì chúng tôi là của Ngài”. Tuyệt đối không có nếu, thì. Thay vào đó, “Nếu Ngài cứu chúng tôi, chúng tôi là của Ngài nếu Ngài không cứu chúng tôi, chúng tôi cũng là của Ngài”.
Nhà vua ném ba người đàn ông vào lò và những người này đã sống. Trên thực tế, bốn người đã được nhìn thấy ở đó trong đám cháy và người thứ tư trông “giống như con của thần minh” (Đanien 3: 92). Sự giải thích của chúng tôi là Chúa Kitô đã ở với ba người đó trong đám cháy. Chúa Kitô đã giải cứu họ khỏi sự chết.
Hananiah, Azariah và Mishael không có niềm tin có điều kiện. Tại sao? Họ có trái tim như trái tim Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy trái tim của Chúa Giêsu trong Vườn Giệtsimani khi Ngài cầu nguyện cùng một điều “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (xin xem Mt 26: 39). Hananiah, Ananiah và Mishael được giao nộp và họ đã nhận được một phép màu. Nhưng vấn đề không phải là phép mầu. Vấn đề là có một trái tim giống như trái tim của Chúa Giêsu.
Không phải lúc nào chúng ta cũng có được phép lạ. Stephen, một trong những phó tế đầu tiên là người tử vì đạo đầu tiên cho Chúa Kitô (xin xem Công vụ 7). Stephen đã được Thiên Chúa xức dầu như một nhà thuyết giáo quyền năng. Khi ông rao giảng cho những người đã giết Chúa Giêsu, họ không muốn nghe nên họ bịt tai (7:57), xông vào kéo Stephen ra khỏi thành và ném đá cho đến chết. “Đôi khi Chúa Giêsu cho phép chúng ta có một trái tim tan vỡ để gìn giữ chúng ta khỏi một trái tim bị hư mất”.
Stephen giống như Hananiah, Azariah và Mishael có một trái tim giống như Chúa Giêsu. Đối với cả bốn người này đơn giản là không có điều kiện nào. “Nếu Ngài cứu con, thật tuyệt vời. Nếu Ngài không cứu con, con vẫn yêu Ngài”..
Tất cả chúng ta đều muốn có phép lạ. Trong gia đình Kitô giáo chúng ta, trong câu chuyện của chúng ta, chúng ta có phép lạ - nhưng chúng ta cũng có những người tử vì đạo. Đôi khi chúng ta nhận được phép lạ; đôi khi chúng ta bị tử đạo. Đôi khi chúng ta được cứu; đôi khi chúng ta nhận được cái chết.
Hiển nhiên là chúng ta muốn phép lạ. Chúng ta có thể ghen tị với những người như Lasarô, Maria và Mátta. “Cái quái gì vậy? Sao họ lại có được phép lạ?” Có thể bạn biết những người nhận được phép lạ; họ đã được cứu và họ được chữa lành. Giả định của chúng ta có thể là tình yêu luôn có nghĩa là được tha thứ cho sự tan nát, rằng tình yêu luôn có nghĩa là được tha thứ cho một trái tim tan vỡ. Nhưng có lẽ quan điểm của Thiên Chúa cho rằng có điều gì đó còn tồi tệ hơn cái chết và còn tồi tệ hơn cả một trái tim tan vỡ. Có lẽ nản lòng còn tệ hơn trái tim tan vỡ. Tôi nghĩ rằng đôi khi Chúa Giêsu cho phép chúng ta có một trái tim tan vỡ để bảo vệ chúng ta khỏi một sự nản lòng.
Khi Stephen hấp hối, ông đã kêu lên những lời Chúa Giêsu đã kêu lên từ thập tự giá “Lạy Cha xin tha thứ cho chúng”(xin xem Công vụ Tông đồ 7: 60). Tại sao? Bởi vì trong khi ông bị giết, trái tim của ông - giống như trái tim của Chúa Giêsu - đang bị tan vỡ. Nó đã bị tan vỡ không phải bởi cái chết của ông mà bởi sự cứng lòng của những kẻ sát nhân.
Đó là điều điên rồ khi trở thành một Kitô hữu - như trái tim của Chúa Giêsu, trái tim của chúng ta có thể tan vỡ mà không bị hư mất. Chúng ta có thể thuộc về Chúa và không có mối quan hệ có điều kiện nào. Với ân sủng của Ngài làm việc trong chúng ta, chúng ta có thể nói “Bất cứ điều gì bày tỏ Ngài nhất trên thế gian, hãy để nó được thực hiện. Cho dù đó là một phép lạ hay sự giải thoát hay cái chết của người tử vì đạo, điều đó không quan trọng. Không có điều kiện. Con muốn có một trái tim như của Ngài đã tan vỡ nhưng không hư mất.”